Thứ Hai, tháng 12 21, 2009

CIA và Triều Đại Họ Ngô



Phần 1 :


Phần 2 :


Phần 3 :


Phần 4 :


Phần 5 :


Phần 6 :


Phần 7 :


Phần 8 :


Phần 9 (hết) :

CIA và các Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa



Phần 1 :


Phần 2 :


Phần 3 :


Phần 4 :


Phần 5 (hết) :

Chủ Nhật, tháng 12 13, 2009

Giương Cao Ngọn Cờ Vàng










Với tinh thần giương cao ngọn cờ vàng bất cứ nơi nào có sự hiện diện của cưu chiến binh và quần chúng Mỹ, Cộng Đồng Việt Nam và anh em Hội Hải Quân Hàng Hải VNCH/ San Diego tề tựu đúng 08:00AM sáng nay thứ Bảy 11/12/2009 tại Mira Mesa để cùng lên đường đến chỗ tập trung tại Đại Lộ Broadway Escondido.

Mặc dù đã trù liệu, nhưng khi đến thành phố Escondido thì các ngả đường vào khu hành lễ đã bị chặn lại; chị Kim Trang, đại diện cộng đồng đã phải trổ tài ngoại giao với các thầy phú lít Mẽo, nên đã được mọi sự dễ dàng, tuy nhiên cũng phải đậu xe đi bộ đến gần một mile mới tới chiếc xe “hoa” của Hội Cựu Chiến Binh Mỹ Escondido.

Đến nơi các cựu chiến binh Mỹ, Việt một số đã quen biết trước chào hỏi nhau rất niềm nở, và cùng nhau bắt tay trang hoàng chiếc xe hoa thêm lá cờ vàng và banner của Cộng Đồng Việt Nam San Diego và Thank You America.

Theo tin thời tiết thì ngày Thứ Bảy dự báo sẽ có mưa suốt ngày, nên mọi người dù có e ngại sẽ bị ướt và cảm lạnh và Hội CCB Escondido cũng thông cảm tùy nghi để phía cộng đồng Việt quyết định, tuy nhiên một khi anh em đã đồng lòng thì dù có gió tuyết rét buốt, đường xá xa xôi, trơn trợt, chỉ là chuyện nhỏ, nên mọi người đã chuẩn bị áo mưa ô dù đầy đủ. Riêng chị Ngọc Lan đi lẻ đàn nên đã phải đậu xe cuốc bộ đuổi theo xe hoa, nhìn tà áo dài đỏ của chị nổi bật trong đám mưa mù, mọi người sốt ruột phải thúc tài xế dừng xe lại để đưa chị Lan lên xe, lúc đó cả đoàn mới cảm thấy nhẹ nhõm.

Hai bên đại lộ Broadway, dân chúng vẫy tay, cảm ơn chào đoàn diễn hành, có những vị cao niên râu tóc bạc phơ khi thấy xe hoa của Hội Cựu Chiến Binh đi ngang đã dứng nghiêm bỏ nón chào kính theo kiểu nhà binh.

Anh Nguyễn Văn Hội, Hội Trưởng Hội HQ/HH/VIỆT NAMCH/SD đóng vai hoạt náo viên, luôn miệng Merry Chrismas và huýt sáo vui vẻ làm các cựu chiến binh Mỹ cũng hào hứng vẫy tay chào đám đông và chúc mừng Giáng Sinh.

Theo lời chị Ngọc Lan, chị đã phóng xe 85 miles một giờ trên freeway 15 ướt át, luôn miệng đọc kinh cầu nguyện, rốt cuộc chị đã mãn nguyện là tham dự được cuộc diễn hành và nhờ ơn trên thương nên khi diễn hành chỉ bị một ít mưa bụi nhỏ và dân chúng vẫn đội mưa xem đoàn diễn hành đến phút chót.

Đáng phục chăng là mấy em nữ sinh cheerleaders bé bỏng , đội mưa, chân tay múa may suốt buổi diễn hành nhưng vẫn tươi cười hoàn thành trách nhiệm được trường giao phó.

Tin Nhanh HNPD

Thứ Hai, tháng 11 23, 2009

Liên Thành Và Biến Động Miền Trung Hội Luận Hay Minh Họa

Xin mời Quý-Vị xem qua Bài của Định-Nguyên, Sỹ-Quan CSQG 100% - Trân trọng !


Liên Thành Và Biến Động Miền Trung Hội Luận Hay Minh Họa


Trước tiên, tôi xin được trình bày cùng độc giả vài nét về buổi Ra Mắt Sách và Hội Luận cuốn Biến Động Miền Trung (BĐMT) của tác giả Liên Thành (LT) tại Sacramento, Thủ Phủ của California vào ngày 8 tháng 11 năm 2009.

Về lượng người tham dự: Có khỏang trên dưới ba trăm người, một kỷ lục chưa từng có trong những lần ra mắt sách trước đây. Trong số nầy bao gồm ba thành phần bênh, chống ông LT và những người đơn giản đến để tìm hiểu. Phe bênh ông LT nhiều hơn, cộng với “Đội Hộ Giá” của ông ta đến từ Houston, TX; San Jose, CA… nên đây là thành phần áp đảo trong Buổi Sinh Hoạt.

Với chủ tâm của Ban Tổ Chức (BTC), tác giả LT, cùng những người có tinh thần “Chống Cộng Triệt Để” trong số đông cử tọa, Buổi “Hội Luận” hoàn toàn có lợi cho ông LT. Tác giả đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Số người mua sách cũng nhiều nhất từ trước đến nay.

Như thế là rất thành công, thành công về tài chánh, về sự ủng hộ dành cho tác giả cũng như về mục đích nào đó mà ông LT nhắm đến!

Bây giờ, xin được giải thích tại sao tôi lấy tựa đề “Hội Luận Hay Minh Họa”.

Trong phần giới thiệu tác phẩm, tác giả LT trình bày ba biến cố mà người dân Huế phải đối đầu: Biến Cố 1966 (BĐMT), MậuThân 1968, “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, sau đó ông tuyên bố đi vào phần “Hội Luận” bằng cách thách thức rằng ông sẵn sàng đối chất với bất cứ ai, đặc biệt xin mời hai ông Bảo Quốc Kiếm (người viết tác phẩm Liên Thành Mắm Tôm, tôi đọc được trên “net”) và Trần Kiêm Đoàn (tác giả bài Đôi Điều với ông Liên Thành), nếu có mặt hôm nay, lên ngồi hàng ghế đầu mặt đối mặt nói chuyện với ông để “Tìm Ra Sự Thật”! Tôi cho rằng đây là một sự Thách Thức Nặng Phần Trình Diễn, Kích Động, mục đích không có gì khác hơn là để “Gây Khí Thế”, nhận những tràng pháo tay, những tiếng la hét hoan hô từ thành phần ủng hộ. Ông Bảo Quốc Kiếm không phải là người địa phương (ở đâu tôi không biết), ông Trần Kiêm Đoàn tuy là người địa phương nhưng đã từ chối đối chất ngay từ đầu tại sao còn thách thức?! Ngoài ông Bảo Quốc Kiếm, Trần Kiêm Đoàn, tôi cũng là người đã phản biện ông LT, đã nói với ông Trần Văn Ngà (TVN, người điều khiển chương trình, Đồng Trưởng Ban Tổ Chức với ông Bùi Hoàn) cả tuần trước, tại sao tôi không được phép chất vấn ông LT? Tác giả LT, đặc biệt là ông TVN chắc chắn đã đọc bài tôi (Liên Thành, Người Bỏ Quên Lịch Sử, đăng trên DCVonline ngày 08 tháng 6 năm 2009, haivannews.com (và báo giấy) cùng thời gian, một vài website đã tự ý lấy đăng lại như aolam.vn… Trước khi ông LT đến Sacramento, tôi đã cho phổ biến lại trên Báo Làng số 567, ngày 06 tháng 11 năm 2009), đã biết tôi có mặt trong Hội Trường, tại sao làm ngơ? Như thế, sự thách thức “sẵn sàng đối chất với bất cứ ai” của tác giả LT chỉ có tính cách “Tuyên Truyền”, thiếu thực tâm! Khi lên phát biểu, tôi xin được nêu năm câu hỏi có liên hệ móc xích với nhau dành cho tác giả LT thì ông TVN không chịu, với lý do: “Làm việc gì cũng phải theo nguyên tắc, điều lệ”! Nguyên tắc điều lệ nào? Trước khi đi vào phần “Hội Luận”, ông chưa hề đưa ra một nguyên tắc điều lệ nào cả, tôi lấy gì mà theo? Vì không có nguyên tắc, điều lệ nào nên nội dung Sinh Hoạt hôm ấy không gì khác hơn là một sự tập hợp để tố cáo liên tục và “Cạn Tàu Ráo Máng” hai Nhà Sư Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang mà không chấp nhận ý kiến phản biện. Ông Thích Đôn Hậu đã “Tịch”, ông Thích Trí Quang đang “Bế Môn Tỏa Cảng”, chẳng còn ảnh hưởng gì tới ai nữa, sống đó cũng coi như đã chết rồi. Tố cáo những “Xác Chết” nầy, khơi lại hận thù cũ là Tinh Thần Sinh Hoạt tại Sacramento hôm ấy! Trong khi tôi đang trình bày, những lời phản đối “Thôi! Dẹp!” vang lên từ dưới kia. Sau đó, một anh bạn trẻ nêu lên một câu hỏi cũng thuộc loại phản biện thì Hội Trường trở nên náo loạn và hung dữ. Những tiếng la ó đồng loạt, những nắm tay đưa lên, những thân người chồm tới đầy “Khí Thế Đấu Tranh”, thiếu đường muốn ăn tươi nuốt sống người ta! Một số người thấy tình trạng bát nháo như thế nên bỏ ra về. Với hiện tượng nầy, chúng ta hãy cùng suy nghĩ: Người Việt Nam ở Mỹ đã học hỏi được rất nhiều điều từ Người Bản Xứ, nhưng Tinh Thần Sinh Hoạt Dân Chủ, Văn Minh thì không chịu học!

Tôi hoàn toàn thất vọng về cách Tổ Chức và Tinh Thần “Thảo Luận” ấy. Từ mấy ngày nay, tôi chiêm nghiệm rằng Buổi Sinh Hoạt ra Mắt Sách và Hội Luận BĐMT đó không phải là cơ hội cho những tiếng nói Trí Thức, Viễn Kiến, Xây Dựng. Tôi rất tiếc là đã bỏ thì giờ đến tham gia. BTC đã đứng hẳn về phía ông LT, không đóng vai trò trung gian để tìm hiểu ý kiến đôi bên. Không những căn cứ vào cách Điều Hành “Hội Luận” của BTC, mà trong Bài Tường Thuật BUỔI HỘI LUẬN VÀ RA MẮT “BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG” CỦA LIÊN THÀNH TẠI SACRAMENTO THÀNH CÔNG RỰC RỠ của ông TVN đã nói lên điều ấy. Mời quý vị vào www.haivannews.com đọc để thấy được cái nội dung và tinh thần của bài “Tường Thuật” nầy của ông TVN. Đây không phải là một “Report” của một “Reporter” mà là sự đánh trống khua chiêng, sự vuốt đuôi, sự lặp lại (Repeater) Luận Điểm của ông LT trong BĐMT của chính Người Tổ Chức (Organizer) và Điều Hợp Chương Trình (Co-ordinator). Nó đã chứng tỏ BTC, đặc biệt là ông TVN, đã có chủ ý đem “Tinh Thần BĐMT” đến Sacramento từ trước. Bên cạnh sự hợp lực cùng với ông LT tố cáo những Nhà Sư Lãnh Đạo Phất Giáo Đấu Tranh, ông TVN còn “Hỏi Thăm Sức Khỏe” những nhân vật khác không can dự đến buổi “Hội Luận” (sao không viết một bài khác?). Tổ chức Ra Mắt và Hội Luận một cuốn sách đã gây nhiều sóng gió như thế mà BTC đã hoàn toàn không làm đúng theo chức năng của mình. Có người cho rằng BTC đã thiếu Trình Độ, không đủ Khả Năng để Tổ Chức và Điều Hành một Buổi Sinh Hoạt có tính Chuyên Nghiệp, Văn Minh, Tự Do và Dân Chủ như họ mong đợi.

Vài Dòng Tâm Sự Với Tác Giả Liên Thành.

Trước khi có vài chia sẻ, mong anh hiểu rằng tôi bất đồng quan điểm với anh nhưng hoàn toàn không xa lánh anh. Tuy làm việc tại Ty CSQG Thừa Thiên-Huế (hồi ấy còn gọi là Ty, chưa phải là BCH) chỉ mấy tháng, chưa gặp anh trong công việc lần nào nhưng tôi vẫn tôn trọng anh. Anh lên Sacramento tôi cũng đã tìm thăm, cũng ngồi ăn cơm với anh. Với tôi, phản bác cứ phản bác, anh em vẫn cứ là anh em. Trong tinh thần đó, tôi có vài dòng bàn thảo thêm với anh.


Khi tôi hỏi câu: “Theo tôi, sự đấu tranh của Phật Giáo là một phong trào quần chúng, sự tác hại đối với VNCH phải có, nhưng ở mực độ nào đó tôi không rõ. Anh cho rằng các vị Hòa Thượng, Thượng Tọa Lãnh Đạo Phật Giáo ở Huế… như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu v.v. là Cộng Sản, đã vâng lệnh Hà Nội kích động quần chúng làm rối loạn xã hội Miền Nam, đâm sau lưng chiến sĩ, và là nguyên nhân chính làm sụp đổ Miền Nam. Vậy, theo anh, về phía chính quyền, những tên Việt Cộng cao cấp chính cống như Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Cao Thăng, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Hữu Hạnh… nội tuyến trong Quân Đội và Chính Phủ, kể cả Phủ Tổng Thống qua cả hai Nền Đệ I và Đệ II Cộng Hòa có là nguyên nhân làm sụp đổ VNCH không? Nếu có, so với Mấy Ông Sư Phật Giáo, họ nguy hiểm hơn hay chỉ đứng sau Mấy Ông Sư”? Anh đã không trả lời trực tiếp mà chỉ tập trung tố cáo dai dẳng hai Nhà Sư Đôn Hậu và Trí Quang (việc nầy anh đã làm trong phần phát biểu về tác phẩm rồi). Với đòi hỏi của tôi, sau đó Ban Tổ Chức đã phải nhắc anh trở lại câu hỏi, nhưng cũng như trước, anh vẫn không trả lời trực tiếp mà “Bổn Cũ Soạn Lại”, tố cáo hai Nhà Sư nói trên thêm một lần nữa. Hai vợ chồng tôi hết sức thắc mắc và ngạc nhiên. Cuối cùng, khi Buổi Sinh Hoạt sắp tàn, tôi gần như lên giựt micro (và anh đã tự động đưa micro cho tôi, không phải BTC, cám ơn anh) lập lại câu hỏi. Không thể tránh được nên anh đã trả lời, đại ý “chuyện Trung Ương tôi không biết”! Cũng được đi, nhưng tại sao anh không trả lời như thế ngay từ đầu mà phải vòng vo mất ít lắm là 30 phút cho hai lần tránh né câu hỏi bằng sự lặp lại thừa thải? Anh muốn lợi dụng “Khí Thế” của Buổi Sinh Hoạt để tránh trả lời thắc mắc của tôi chăng? Cũng lạ, biết anh lạc đề như thế mà nhiều người vẫn cứ hò hét, vổ tay hoan nghênh anh tưng bừng!

Là Chỉ Huy Trưởng CSQG địa phương Thừa Thiên-Huế, anh không biết chuyện Trung Ương cũng phải thôi. Thế thì làm sao anh lại biết chuyện Thượng Tọa Thích Trí Quang tiếp xúc với ĐạI Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn? (Sài Gòn không phải là Trung Ương sao?) Nhân đây, tôi có một thắc mắc về chuyện gặp gỡ nầy. Trong buổi Hội Luận vừa qua, anh phát biểu: “Nhìn vào thành phần Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Nội Các Chiến Tranh, hầu như không có người của Thích Trí Quang. Phản ứng đầu tiên của Thích Trí Quang là gặp Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, tỏ ý muốn Tổ Chức Đảo Chánh lật Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đại sứ Mỹ hỏi Trí Quang: Nếu Đảo Chánh lật Thiếu Tướng Kỳ thì Thượng Tọa đưa ai thay thế, “Trí Quang trả lời rằng cứ lật nó rồi cho nó làm lại”! Không những tôi mà nhiều người (tôi quen) ngồi theo dõi và nghe rõ mồn một như vậy. Nhưng khi về nhà, đọc lại BĐMT thì không phải thế. Anh đã viết rằng: “…Đại sứ Mỹ hỏi Trí Quang: Nếu Đảo Chánh lật Thiếu Tướng Kỳ thì Thượng Tọa đưa ai thay thế, Trí Quang không trả lời được câu hỏi của Đại Sứ Mỹ, lẳng lặng ra về”! Từ “Trí Quang trả lời cứ lật nó rồi cho nó làm lại” đến “Trí Quang không trả lời được câu hỏi của Đại Sứ Mỹ, lẳng lặng ra về” khác biệt cả một trời một vực! Vậy đâu là sự thật, thưa anh? BĐMT là một cố gắng “Trả lại sự thật cho lịch sử” của anh hay chỉ là một “Sáng Tác Văn Nghệ” theo cảm hứng? “Một lần bất tín, vạn lần không tin”, xin những nhà viết sử, những cựu viên chức cao cấp của VNCH, những bậc cao minh cho tôi xin ý kiến về vấn đề nầy. Tôi muốn tin những gì ông LT viết trong BĐMT lắm, nhưng chính ông là người “Tiền Hậu Bất Nhất” làm sao tin? Chưa hết, anh đã tố cáo Nhà Sư Thích Trí Quang là CS trong suốt cả mấy tiếng đồng hồ, nhưng gần cuối Buổi Sinh Hoạt anh cho phân phát một tài liệu mà Mỹ đã giải mật, tiết lộ rằng ông Trí Quang đã nhận tiền từ CIA, nghĩa là ông Trí Quang là kẻ vừa là VC vừa là CIA”! Tôi hỏi tại sao lạ vậy, anh trả lời “Có thể Thích Trí Quang là một Điệp Viên Hai Mang”! Tôi gần như “Tẩu Hỏa Nhập Ma”, hoang mang quá sức.

Anh đã tuyên bố anh viết BĐMT với mục đích làm rõ một giai đoạn lịch sử. Trong lời giới thiệu BĐMT cũng nói rằng việc làm của anh là để “Trả lại sự thật cho lịch sử”. Nhưng đọc quyển sách nầy nhiều người thấy rằng, qua giọng văn tố cáo hằn học, anh muốn Cộng Sản Hóa Phong Trào Đấu Tranh Phật Giáo với tư cách là một Nhân Chứng Sống, hơn thế nữa, một Nhân Chứng Có Thẩm Quyền.

Tôi cho rằng BĐMT chưa thể, không thể “Trả lại sự thật cho lịch sử” được. Ai cũng biết BĐMT là sự kéo dài của Phong Trào Đấu Tranh Phật Giáo. Viết về BĐMT mà không viết, không nói đến lý do tại sao có Đấu Tranh Phật Giáo thì thật là một thiếu sót lớn lao, không nói lên được một cách khách quan toàn bộ bối cảnh của giai đoạn lịch sử đen tối đó. Tranh Đấu Phật Giáo và BĐMT chỉ là một Biến Cố Lịch Sử. Anh không thể cắt biến cố nầy ra làm hai, rồi chỉ nói phần tiêu cực mà tảng lờ nguyên nhân chính đáng của nó. “Một khúc bánh mì vẫn là bánh mì, một mẫu của sự thật không thể là toàn bộ sự thật”! Khi ngồi trong Nhà Hàng Nha Trang (Sacramento) tôi hỏi riêng anh: “Nguyên nhân nào có Phong Trào Đấu Tranh Phật Giáo”? Anh trả lời “Lúc đó tôi còn là một học sinh nên không biết gì về chuyện đó cả”! Ai tin được anh đây? Con người thông minh, có trí nhớ trên cả siêu việt như anh, chuyện BĐMT đã xảy ra gần nửa thế kỷ mà anh còn nhớ như in, kể vanh vách trong sách thì làm sao một người điạ phương như anh, lúc đó cũng đã 17 tuổi (nếu anh sinh năm 1946) hoặc 21 tuổi (nếu anh sinh năm 1942) rồi, không biết, không nhớ vụ Tranh Đấu Phật Giáo Năm 1963 chỉ cách BĐMT có ba năm?! Thành ra, theo tôi, không phải anh không nhớ, không biết mà anh đã cố tình bỏ qua Biến Cố 1963. Chính vì sự bỏ qua nầy của anh mà người khác có thể nghĩ rằng đây là một tránh né có chủ đích, một sự bao che vụng về của anh đối với những sai lầm của Đệ Nhất Cộng Hòa! Do đó, dù viết mạch lạc, chi tiết đến mức độ nào, BĐMT đã không có được Tính Khách Quan Cần Thiết, không nói lên được Toàn Bộ Bối Cảnh của Biến Cố ấy. Ai cũng biết các Vị Sư Lãnh Đạo và Phật Tử Các Giới đứng lên đấu tranh là để chống lại Sự Đàn Áp Phật Giáo của Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Đây là một sự thật lịch sử mà thế giới, đặc biệt là người dân Miền Nam VN, nhất là Huế ai cũng biết. Mọi sự cố tình dấu diếm, bao che, xuyên tạc như thế đều vô ích, nó chỉ làm nổi bật một điểm duy nhất: Anh đang nhắm đến một hướng đi nào đó, không phải là tìm sự thật lịch sử.

Biến Cố Phật Giáo Năm 1963 và BĐMT sau đó ít nhiều có liên quan đến hai Tôn Giáo lớn: Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo. Sự liên quan mà tôi đề cập là sự liên quan xấu, nghĩa là sự hiềm khích, sự kình chống lẫn nhau giữa một số Tín Đồ hai Tôn Giáo nầy đã xẩy ra đâu đó trên mảnh đất Miền Nam từ 1963 trở về sau. Đã gần nửa thế kỷ qua, đặc biệt là sau khi mất nước, tất cả đã gần như chìm vào dĩ vãng. Thế mà, sau khi BĐMT của anh và những phản ứng bênh chống tiếp theo xuất hiện, sự Hận Thù Tôn Giáo ấy đã sống lại, ít nhất là trên các Diễn Đàn Báo Chí Điện Tử tại Hải Ngoại. Mời anh cùng quý vị nghe hai phát biểu sau đây tôi “lượm” được trên ĐCV Online:

- “Ông LT viết BĐMT và TCS, nhân đó dẫn thêm những anh CS đầu trọc đội lốt thầy tu phá làng phá xóm…Thành phần Phật giáo gồm tăng ni và tướng tá đạo Phật đa số bại hoại, mang não trạng phản quốc nên dễ mua chuộc…”

- “Đàn áp Phật giáo là điều quá rõ ràng mà còn lớn giọng chống chế… Không nên tranh luận với đám con chiên đeo thánh giá, chúng ngu si, cuồng tín bất chấp lẽ phải, nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong, luôn luôn lấn lướt người khác để bành trướng đạo Trời, bất kể gia đình, tổ quốc! Mong rằng những người VN theo Vati giáo nên trở về với dân tộc”.

Nhiều, nhiều nữa, càng đọc càng thấy lo sợ. Nếu không có BĐMT, những kẻ quá khích của cả hai bên đều không có cơ hội phát biểu một cách sai lệch, hận thù Tôn Giáo như thế. Mọi Tôn Giáo tại VN, đặc biệt là hai Tôn Giáo lớn là Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, dù đến đất nước ta vào thời điểm nào, bằng con đường nào, hiện nay họ đã là một thành phần bất khả phân của Dân Tộc VN, chúng ta phải chấp nhận nhau, tôn trọng nhau để sống hài hòa với nhau. Mọi hành động, lời nói bôi bác nhau, kình chống nhau, xúc phạm nhau kiểu như thế… chỉ làm cho dân tộc và đất nước thêm điêu linh. Anh có bao giờ suy nghĩ đến điều nầy khi viết BĐMT không? Trong tình hình hiện nay, VC trấn áp khốc liệt các Tôn Giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo thì sự “Tái Xuất Giang Hồ” Tinh Thần Kỳ Thị Tôn Giáo trong sinh hoạt của người VN là một điều rất đáng lo ngại, nó chỉ có lợi cho VC.

Sau khi dự Ra Mắt Sách và Hội Luận của anh tại “Quê Tôi”, sáng hôm sau tôi đọc được bài Biến Động Miền Trung của tác giả Trọng Đạt trên Take2tango.com (11/9/2009) tôi cảm thấy rất tâm đắc. Té ra cũng có người có ý tưởng như tôi. Mời anh đọc một đoạn: “Trên nhiều diễn đàn ngày càng có thêm những bài viết chỉ trích, than phiền về cuốn BĐMT của LT, cách đây vài tháng trên DCV Online một bài góp ý với LT được đưa lên diễn đàn nầy, ngay sau đó có hàng mấy chục rồi gần một trăm người góp ý, họ đem tác giả bài viết ra đấu tố y hệt như cải cách ruộng đất 1955 ngoài Bắc. Những người bênh vực ông LT chửi rủa, tru tréo, mạt sát tác giả bài viết và sau đó những người ủng hộ tác giả phản pháo lại dữ dội, họ làm như muốn ăn tươi nuốt sống nhau. Điều đáng sợ là trong đó vấn đề Tôn Giáo đã được hai bên đem ra làm đối tượng tranh cải, bên nầy chỉ trích nói xấu Tôn Giáo bên kia, chia rẽ Tôn Giáo đã thực sự thành vấn đề”.

Anh có biết BĐMT của anh đã gây mâu thuẫn sâu sắc trong các Cộng Đồng không? Anh có biết BĐMT của anh đã làm sống lại sự Kỳ Thị Tôn Giáo không? Tôi rất lo ngại ảnh hưởng của BĐMT trong những thời gian sắp đến. VC đang tàn hại Dân tộc và Đất Nước Việt Nam. BĐMT của anh không có tinh thần chống cộng thật sự, nhưng nó chỉ kích động chống loại “Inactive Communists, cộng không còn hiện diện, cộng đã mất năng cách” mà không tạo một lợi điểm nào (nếu không nói là rất bất lợi) trong việc chống bọn “Active Communists, cộng đang bán nước hiện tại”. Với tình trạng chia rẽ trầm trọng trong sinh hoạt Cộng Đồng từ bấy lâu nay, sau khi BĐMT xuất hiện, tình trạng nầy càng trở nên tồi tệ hơn. Không có đoàn kết làm sao có sức mạnh? (Xin qúy vị cao minh, đặc biệt quý vị chống cộng qua cuốn BĐMT cho kẻ hèn nầy biết tác phẩm nầy có lợi điểm như thế nào trong sự nghiệp chống CS của chúng ta HIỆN NAY?). Khi tôi hỏi: “Là một người chống cộng như anh, xin cho biết BĐMT có lợi như thế nào trong sự nghiệp chống CS của Dân tộc VN hiện nay”? Anh đã trả lời: “Khi tôi viết những sự việc ấy, tôi không nghĩ là nó có lợi hay có hại gì cả”! Cũng lạ, những người trí thức, những giới chức cũ như anh đáng ra phải có ý thức trách nhiệm cao, phải làm sao tạo được sức mạnh đoàn kết để đấu tranh với VC chứ. Rất tiếc, vì anh vô ý thức (?) nên BĐMT có vẻ như đã đi ngược với chiều hướng đó. Trong Biến Cố Phật Giáo, bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Ngô Đình Nhu, Đệ Nhất Phu Nhân VNCH thời ấy, khi qua Mỹ để gọi là “Giải Độc” đã phát biểu như sau: “I believe all the devils in the hell are against us” (tạm dịch: Tôi tin rằng tất cả quỷ sứ dưới địa ngục đang chống lại chúng tôi)! Khác với giọng điệu hàm hồ, thiếu lễ độ, thiếu Cung Cách Ngoại Giao của bà Trần Lệ Xuân, BĐMT được viết khá hơn nhưng cũng hàm chứa những xúc phạm nặng nề tập thể các vị Hòa Thượng Thượng Tọa Lãnh Đạo Phật Giáo và Các Giới Phật Tử, xưa cũng như nay.

Không phải chỉ có Phật Tử mới đấu tranh như anh nghĩ. Khi tham gia Lực Lượng Sinh Viên-Học Sinh Tranh Đấu, tôi không phải là một Phật Tử (tôi chưa bao giờ là một Phật Tử cả). Tôi tranh đấu không phải để “Bảo Vệ Đạo Pháp” như giới “Con Phật”. Tôi cùng tham gia với họ để Chống Bất Công, Chống Đàn Áp, Chống Gia Đình Trị, Chống Tôn Giáo Trị... Ngoài ra, tôi có thằng bạn học thời ấy, con của một vị Phó Quận Trưởng Hương Thủy, người Thiên Chúa Giáo cùng tham gia tranh đấu với tôi. Hai thằng tôi từng bị CSDC đuổi chạy có cờ, từng có mặt và thoát chết tại Đài Phát Thanh Huế đêm 8 tháng 5 năm 1963. Người Thiên Chúa Giáo chân chính chỉ tin vào sự cao cả và thánh thiện của Đức Chúa Trời, không theo những kẻ phàm phu lợi dụng Đạo Chúa để mưu cầu quyền lợi trần tục thấp hèn. BĐMT là một bước quá đà của giới Lãnh Đạo Phong Trào Đấu Tranh Phật Giáo, khó chấp nhận được. Nhưng không phải sự đấu tranh nầy là do VC phát động và điều khiển. VC nội tuyến trong hàng ngũ Phật Giáo là điều khó có ai chối cãi, nhưng chỉ có người, không phải hầu hết những người tham gia đấu tranh. Anh có biết hiện nay đa số Đồng Hương Phật Tử nghĩ như thế nào về anh không? Họ nghĩ rằng, qua BĐMT, anh đang đánh phá, bôi đen Phật Giáo VN, nói chung! Anh có là Phật Tử hay không, không thành vấn đề. Xưa cũng như nay, thiếu gì kẻ phản đạo, kể cả người đã khoác áo tu hành. Tôi có đọc được một Thông Báo của Nguyễn Phước Tộc minh xác họ vô can đối với BĐMT của anh, lên án anh về việc xúc phạm đánh phá Phật Giáo, gây hoang mang chia rẽ trầm trọng trong các Cộng Đồng. Do đó, nhiều người cho rằng, BĐMT không thể được coi là một tác phẩm đọc để “Ôn Cố Tri Tân” mà, dù vô tình hay cố ý, đó là một sự hâm nóng hận thù cũ, một sự Đánh Phá Tôn Giáo rất nguy hiểm. Người Mỹ ví von hiện tượng nầy bằng câu nói: “The action of opening the worm can”, nghĩa là hành động mở nắp một thùng giòi! Không cần phải giàu tưởng tượng cũng có thể hình dung được cảnh tượng như thế nào sau khi thùng giòi được khui nắp. Anh và một số phần tử khác tin rằng ông Đôn Hậu và Trí Quang là VC, nhưng còn những người khác, nhất là đa số giới Phật Tử thì sao? Họ không tin như vậy (Niềm Tin Tôn Giáo là Niềm Tin Vô Điều Kiện mà anh). Thêm nữa, chi tiết “tìm thấy quần lót phụ nữ” trong phòng ông Trí Quang của anh đã làm cho Giới Phật Tử đau lòng và phẩn uất. Họ nói rằng chính anh đã dàn dựng chuyện nầy (khi đã có chủ tâm thì dễ quá mà, nhất là người có điều kiện như anh) và do đó anh đã tạo “Nghiệp” quá lớn. Cá nhân tôi thấy Chuyện “Quần Lót” nầy khó tin. Lý do: Hơn ai hết, ông Trí Quang biết mình là một người tu hành nổi tiếng (hay ít lắm cũng đội lốt tu hành, theo quan điểm của anh), nếu có “Ăn Vụng” như thế thì ông cũng thừa khôn ngoan để “Chùi Mép” giữ thể diện chứ. Ông không phải là người trần tục ăn nằm với phụ nữ thoải mái hằng ngày, để lại vật chứng một cách “Vô Tư” bất cần sự dòm ngó của thiên hạ như thế. Vấn đề là anh đã nêu lên những sự kiện rất khó kiểm chứng, mức thuyết phục của những sự kiện nầy tùy cảm tính, tùy trình độ kiến thức, tùy định kiến, tùy vào suy nghĩ của từng người, và không bao giờ có được sự đồng lòng về một kết luận chung. Chính sự nhận định khác biệt nầy là mầm mống gây chia rẽ trong Cộng Đồng. Không hiểu, qua BĐMT, anh gặt hái được cái gì, bao nhiêu, nhưng chắc chắn sự chia rẽ, sự Hiềm Khích Tôn Giáo trong hàng ngũ của Người Quốc Gia là có thật. Làm sao chúng ta chống cộng hữu hiệu được? Các Vị Sư mà anh tố xả láng trong BĐMT đều là Tiền Bối của Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng những Sư Sãi trong Giáo Hội PGVN/TN bây giờ, một tổ chức đang bị Việt Cộng cấm hoạt động, có thể bị tiêu diệt bất cứ lúc nào. Tôi không biết Hòa Thượng Thích Quảng Độ đạo cao đức trọng đến đâu, nhưng thưa anh và quý vị, tôi hoàn toàn ngưỡng mộ và ủng hộ đường lối của Ngài cũng như của GHPGVN/TN hiện nay. Ngoài là một Tu Sỹ Phật Giáo, Ngài là một người yêu nước, rất gần gũi với mọi người dân VN yêu tự do, chuộng dân chủ và đặc biệt là chống ngoại xâm! Ngài đòi dân chủ đa nguyên, Ngài đòi tự do cho người dân, cho sinh hoạt Tôn Giáo, Ngài chống Việt Cộng bán nước, Ngài lên án việc Việt Cộng cho Trung Cộng khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, Ngài kêu gọi đừng dùng hàng hóa thực phẩm của kẻ xâm lăng Trung Cộng v.v. Chừng đó chưa đủ để chúng ta ủng hộ Ngài sao? (Không ủng hộ chủ trương của Ngài, không lý chúng ta ủng hộ Các Sư Sãi, Linh Mục Quốc Doanh, theo phò bọn vô thần khát máu?). Hiện nay, nguy cơ mất nước của chúng ta rất lớn. Những người sinh hoạt chính trị trong Hàng Ngũ Quốc Gia Chống Cộng nên ý thức như thế và nên biết tự chế, có thể tạm quên những khác biệt hoặc xung khắc để cùng Ngài đấu tranh, cứu nguy Dân tộc VN thoát ách CS mới là việc cần và nên làm. Có Dư Luận cho rằng anh nhận tiền của Việt Cộng và Trung Cộng để Đánh Phá Phật Giáo, gây Chia Rẽ Tôn Giáo, tạo Hiềm Khích Hận Thù trong các Cộng Đồng để chúng ta đánh nhau, quên chuyện đánh TC cướp nước, quên chuyện đánh VC đang bán nước và áp bức đồng bào quốc nội. Tôi không tin anh có thể làm một điều ghê tởm như thế, nhưng Dư Luận như vậy là có thật. Trong bài của Trọng Đạt nói trên, tôi chú ý đoạn nầy: “Nói về ảnh hưởng của cuốn BĐMT thì ta khó mà chối cãi được, năm ngoái năm kia, trong khi dân oan khiếu kiện tại Sài Gòn, Hà Nội ầm ĩ, đồng bào Công giáo Thái Hà đòi đất, giáo dân đòi Tòa Khâm Sứ Hà Nội đang nóng hổi thì BĐMT cũng nổi đình đám ầm ĩ tại Hải ngoại át hẳn vụ tòa Khâm Sứ và vụ Thái Hà của giáo dân trong nước, có một nhà báo đã nói cuốn sách nầy có thể khiến người ta quên đi vụ Thái Hà, Tòa Khâm Sứ…”.

Anh suy nghĩ như thế nào về những Dư Luận như thế?!

Tôi chưa biết động lực nào thúc đẩy anh viết BĐMT. Tôi thật sự không hiểu nổi tại sao một số Người Chống Cộng lại ủng hộ anh nhiệt tình qua tinh thần của cuốn BĐMT?! Là “Tín Đồ Chống Cộng”, nghe “Cộng” là chống, không cần biết “Cộng Chết” hay “Cộng Sống” chăng?!

Định Nguyên Sacramento, CA - Mùa Cựu Chiến Binh 11/2009.
Email: Dinh.Nguyen60@yahoo.com

Thứ Tư, tháng 11 18, 2009

DIỄN TIẾN BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG


Trần Gia Phụng

Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1-11-1963, Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10-1956 bị bãi bỏ. Không có luật căn bản quốc gia, các tướng lãnh tự do tranh giành quyền lực, liên tiếp gây nhiều binh biến, khiến cho tình hình VNCH không ngừng bị xáo trộn. Trong hoàn cảnh đó, một biến động chính trị rộng lớn bùng nổ cả ở Sài Gòn lẫn các tỉnh miền Bắc VNCH, mà trước khi đất nước bị phân chia, là miền Trung Việt Nam, nên dân chúng thường quen sự gọi kiện nầy là Biến động miền Trung.

I.- NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân trực tiếp đưa đến sự bộc phát Biến động miền Trung từ tháng 3 năm 1966 là vụ trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh quân đoàn I và Vùng I Chiến thuật, bị cách chức.

Nguyễn Chánh Thi nguyên là đại tá tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông tham gia cuộc đảo chánh chống tổng thống Diệm ngày 11-11-1960, nhưng thất bại. Ông lưu vong sang Phnom Penh (Nam Vang). Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, ông về nước ngày 16-11-1963. Một tháng sau, ông được cử làm tư lệnh phó Quân đoàn I, dưới quyền chỉ huy lúc đầu của trung tướng Đỗ Cao Trí, rồi của trung tướng Nguyễn Khánh kể từ sau tháng 1-1964.(1) Lúc đó Quân đoàn I gồm sư đoàn I và sư đoàn II, chịu trách nhiệm an ninh các tỉnh thành Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi.

Ngày 30-1-1964, đại tá Nguyễn Chánh Thi vào Sài Gòn giúp trung tướng Nguyễn Khánh, thực hiện cuộc chỉnh lý, đưa Nguyễn Khánh lên cầm quyền. Trở về Quân đoàn I, Nguyễn Chánh Thi được cử làm tư lệnh Sư đoàn I Bộ Binh ngày 7-2-1964, rồi thăng chuẩn tướng ngày 29-5-1964.

Nắm được quyền lực, Nguyễn Khánh tìm cách củng cố địa vị, ban hành Hiến chương ngày 16-8-1964 tại Vũng Tàu nên thường được gọi là Hiến chương Vũng Tàu (HCVT). Hiến chương gặp nhiều chống đối, nhất là giới tín đồ Phật giáo và sinh viên học sinh. Các đảng phái như Đại Việt, Dân Chủ Xã Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng đều lên tiếng công kích. Nhiều cuộc biểu tình xảy ra trên toàn quốc, mạnh nhất là ở Huế, Đà Nẵng và Quy Nhơn. Tại Huế, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do bác sĩ Lê Khắc Quyến thành lập, đả kích nặng nề HCVT. Cuối cùng, trong cuộc biểu tình lớn lao ngày 25-8-1964 tại Sài Gòn. Trung tướng Nguyễn Khánh xuất hiện và hô to khẩu hiệu: "Đả đảo độc tài”, "Đả đảo Hiến chương Vũng Tàu”. Thế là HCVT bị dẹp bỏ.

Sau biến cố nầy, trung tướng Dương Văn Đức và thiếu tướng Lâm Văn Phát tổ chức binh biến ngày 13-9-1964 nhằm lật đổ Nguyễn Khánh. Một lần nữa, Nguyễn Chánh Thi về Sài Gòn giúp trung tướng Nguyễn Khánh dẹp cuộc “biểu dương lực lượng” nầy. Nguyễn Chánh Thi được thăng thiếu tướng ngày 21-10-1964 và trở thành tư lệnh Quân đoàn I ngày 14-11-1964.

Trong khi đó, sau những tranh chấp giữa các tướng lãnh, Hội đồng các tướng lãnh giao chính quyền cho phía dân sự. Phan Khắc Sửu được chọn làm quốc trưởng ngày 24-10-1964 và Trần Văn Hương làm thủ tướng ngày 31-10-1964. Chẳng bao lâu, Phan Huy Quát lên thay Trần Văn Hương ngày 16-2-1965. Ba ngày sau, thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo lại đảo chánh ngày 19-2-1965. Nguyễn Chánh Thi về Sài Gòn giúp chính phủ Phan Huy Quát, ổn định tình thế.

Vì cuộc tranh chấp giữa quốc trưởng Phan Khắc Sửu và thủ tướng Phan Huy Quát, quân đội trở lại nắm quyền. Ngày 19-6-1965, Đại hội đồng Quân lực thành lập Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (UBLĐQG) do trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch và Ủy ban Hành pháp trung ương (UBHPTƯ) do thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch.

Riêng Nguyễn Chánh Thi, ông vẫn giữ chức tư lệnh Quân đoàn I và được thăng trung tướng tháng 10-1965. Vốn là người ngay thẳng, trung tướng Thi công khai chỉ trích những việc mà ông cho là bất công, tham những, nhất là ông nhắm vào hai tướng Nguyễn Văn Thiệu (quốc trưởng) và Nguyễn Cao Kỳ (thủ tướng). Vì vậy, trung tướng Thi gây nhiều tranh cãi đối với tập đoàn các tướng lãnh chính phủ trung ương.

Trong cuộc họp Đại hội đồng Quân lực tại bộ Tổng tham mưu ngày 11-3-1966, các tướng lãnh quyết định cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ phép, ra nước ngoài chữa bệnh mũi, mà theo tướng Thi trong hồi ký Việt Nam: một trời tâm sư, ông cho biết ông chẳng bị bệnh gì cả.

Ngoài ra, lúc đó có dư luận cho rằng trung tướng Thi bị loại ra khỏi chức vụ có thể còn vì một lý do khác. Nguyên vào ngày 1-12-1965, trung tướng Thi gởi thư lên chủ tịch UBLĐQG Nguyễn Văn Thiệu, chính thức đề nghị là Quân lực VNCH phải Bắc tiến, nắm thế chủ động trên chiến trường, mới có thể chiến thắng cộng sản.(2a) Ông cũng công khai đề nghị như thế với người Mỹ.

Chủ trương nầy đã từng được Nguyễn Khánh đưa ra ngày 19-7-1964 và Nguyễn Cao Kỳ nhắc lại ngày 20-7-1965, gọi là “Ngày toàn dân đoàn kết chuẩn bị giải phóng miền Bắc”, nhưng không được người Mỹ chấp thuận. Nguyễn Cao Kỳ vội bỏ chủ trương nầy nên được người Mỹ tiếp tục ủng hộ. Nay trung tướng Nguyễn Chánh Thi kêu gọi thêm một lần nữa. Trung tướng Thi đang giữ chức tư lệnh Quân đoàn I kiêm tư lệnh vùng I Chiến thuật, vùng giáp ranh với Bắc Việt. Phải chăng việc nầy đi ra ngoài chính sách của người Mỹ, nên việc cách chức tướng Thi có liên hệ đến chuyện Bắc tiến và người Mỹ?

Không có tài liệu nào có thể xác quyết điều nầy, nhưng không phải tự nhiên mà ngay sau khi bị buộc nghỉ việc trong cuộc họp tại bộ Tổng tham mưu (11-3-1966), trung tướng Thi nhận được thư của đại tướng William Westmoreland cũng đề ngày 11-3-1966, nhân danh bộ Quốc phòng Mỹ, mời tướng Thi sang Hoa Kỳ chữa bệnh.(2b) Sao lại có sự trùng hợp nhịp nhàng như thế?

Sau cuộc họp ngày 11-3-1966, trung tướng Thi bị giữ lại ở Sài Gòn. Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh được cử lên thay. Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, chỉ huy trưởng Biệt động quân, ra Huế thay thiếu tướng Chuân.

II.- DIỄN TIẾN BIẾN ĐỘNG

Biến động miền Trung năm 1966 có thể tóm lược qua bốn giai đoạn sau đây:

1. CUỘC TRANH ĐẤU PHÁT KHỞI

Khi Đài phát thanh Sài Gòn thông báo quyết định của HĐQL cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ phép và ra nước ngoài chữa bệnh mũi, dân chúng Vùng I Chiến thuật hiểu ngay là trung tướng Thi bị cách chức. Đây là cơ hội thuận lợi để những phần tử vốn âm thầm chống chính phủ quân nhân bấy lâu nay, kích động và phát động các cuộc biểu tình chống đối.

Tức thì, ngày 12-3, cuộc biểu tình bộc phát tại Đà Nẵng, nơi Quân đoàn I đóng bản doanh. Cuộc biểu tình lan ra Huế ngày hôm sau 13-3. Người biểu tình càng ngày càng đông và đủ mọi thành phần: thanh niên, sinh viên, học sinh, công chức, tiểu thương, có cả quân nhân nữa. Đại đa số những người nầy là Phật tử. Những người biểu tình tổ chức thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng (LLTTCM). Những ngày sau đó, càng ngày biểu tình càng dữ dội. Lực lượng TTCM tổ chức tổng đình công, chiếm đài Phát thanh ở Huế cũng như Đà Nẵng.

2. CHÍNH PHỦ ĐIỀU ĐÌNH

Trong khi biểu tình tiếp diễn, chính phủ trung ương kiếm cách thương thuyết, vừa tại vùng I Chiến thuật, vừa tại Sài Gòn. Ngày 16-3, chính phủ đưa trung tướng Nguyễn Chánh Thi ra Đà Nẵng để nhờ tướng Thi kiếm cách yên dân. Sự có mặt của tướng Thi làm cho tình hình êm dịu bớt. Ngày 1-4, chính phủ trung ương gởi trung tướng Phạm Xuân Chiểu ra điều đình. Nhóm biểu tình chống chính phủ giữ trung tướng Chiểu làm con tin một thời gian ngắn.

Tại Sài Gòn, ngày 17-3-1966, đại sứ Cabot Lodge (làm đại sứ lần thứ hai) gặp thượng tọa Thích Trí Quang, trong khi các tướng Thiệu, Kỳ gặp thượng tọa Thích Tâm Châu. Các lãnh tụ Phật giáo đồng ý ngưng biểu tình với điều kiện phía chính phủ giữ lời hứa tổ chức bầu cử và tiến đến chính phủ dân sự. Ngày 19-3-1966, Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) tuyên bố không chống đối chính phủ mà chỉ đòi hỏi bầu cử và thành lập chính phủ dân sự.(3) Tuy nhiên, các cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn. Tại Sài Gòn, cuộc biểu tình tối mồng 2-4-1966 trước Đài phát thanh trở nên hỗn loạn.

Hôm sau, 3-4-1966, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, tuyên bố là cộng sản đã xâm nhập vào các phong trào tranh đấu ở miền Trung và sẽ dùng võ lực để tái lập an ninh tại Đà Nẵng. Lời tuyên bố nầy làm cho cuộc tranh đấu bùng lên mạnh mẽ.

Ngày 5-4-1966, Nguyễn Cao Kỳ ra Đà Nẵng, đem theo hàng ngàn chiến binh bằng cầu không vận Mỹ, nhưng bị quân lính địa phương theo nhóm biểu tình ngăn chận, không cho ra khỏi phi trường. Vị chỉ huy Thủy quân Lục chiến (TQLC) Mỹ tại Đà Nẵng phải can thiệp, mới tránh đụng độ giữa hai bên.(4)

Lúc đó, thị trưởng Đà Nẵng (bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn) cùng tư lệnh Biệt khu Quảng Đà và Trung đoàn 51 Bộ binh (đại tá Đàm Quang Yêu), Địa phương quân, Nghĩa quân, Quân cảnh, công chức Đà Nẵng tuyên bố ly khai với chính phủ trung ương. Tại Huế, chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, trung tướng Nguyễn Chánh Thi cũng về theo phe tranh đấu.

Ngày 8-4-1966, hai tiểu đoàn TQLC được gởi tiếp ra Đà Nẵng. Bộ Ngoại giao Mỹ phản đối và yêu cầu chính phủ VNCH giải quyết tranh chấp bằng thương lượng chứ không bằng quân sự.(Chính Đạo, sđd. tr. 215) Có thể vì vậy, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ chưa quyết định tấn công và ngày 9-4, UBLĐQG cử trung tướng Tôn Thất Đính ra Đà Nẵng làm tư lệnh Quân đoàn I, thay thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân. Vài ngày sau, Tôn Thất Đính về phe tranh đấu.

Để làm êm dịu tình hình, ngày 12-4-1966, UBLĐQG triệu tập Đại hội Chính trị Toàn quốc, gồm chủ tịch các Hội đồng tỉnh và thị xã, đại diện các đoàn thể, đảng phái, đại diện các tôn giáo, nhưng Phật giáo và Ky-Tô giáo không dự. Trong ngày chót của Đại hội (14-4-1966), trung tướng Nguyễn Văn Thiệu công bố sắc luật số 14/66, tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến (QHLH) qua phổ thông đầu phiếu trong vòng từ 3 đến 5 tháng, theo đó QHLH có nhiệm vụ soạn thảo và biểu quyết hiến pháp VNCH. Đồng thời UBLĐQG chấp thuận 10 đề nghị dân chủ hóa của Đại hội. Hai quyết định nầy là một cách nhượng bộ kín đáo những đòi hỏi của phe tranh đấu nhằm dân chủ hóa đất nước, mà chính quyền không bị mất thể diện.

Sau những hứa hẹn nầy, phía Phật giáo tuyên bố tạm ngưng tranh đấu. Ngày 17-4-1966, thượng tọa Thích Trí Quang từ Sài Gòn ra Huế để dàn xếp và kêu gọi đình chỉ biểu tình. Tuy nhiên, một số phần tử cực đoan, và có thể có sự xúi giục của cộng sản, phản đối quyết định tạm ngưng nầy.

3. CHÍNH PHỦ CƯƠNG QUYẾT TÁI LẬP AN NINH

Vào đầu tháng 5-1966, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cho biết sẽ bầu cử QHLH vào tháng 10-1966 thay vì tháng 8, và chính phủ quân nhân sẽ cầm quyền thêm một năm nữa. Tức thì LLTTCM phản ứng, tổ chức biểu tình phản đối khắp miền Trung, tái chiếm đài phát thanh và các cơ sở khác. Lần nầy, với sự thỏa thuận ngầm của chính phủ Hoa Kỳ,(Chính Đạo, sđd. tr. 221) thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ quyết định tái lập an ninh Đà Nẵng và Huế.

Chính phủ trung ương nhờ tàu vận tải Mỹ đưa 40 xe tăng và thiết vận xa đến Đà Nẵng ngày 14-5-1966. Ngày hôm sau 15-5, chính phủ gởi 5 tiểu đoàn Nhảy dù đến Quân đoàn I. Chỉ trong một giờ, quân Nhảy dù tái chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng. Trung tướng Tôn Thất Đính chạy ra Huế.

Ngày 16-5-1966, thiếu tướng Huỳnh Văn Cao được cử ra Đà Nẵng làm tư lệnh Quân đoàn I. Hôm sau 17-5-1966, tại phi trường Tây Lộc (thuộc sư đoàn I Bộ binh, trong thành Nội, Huế), Huỳnh Văn Cao bị thiếu úy Nguyễn Đại Thức mưu sát, nhưng ông Cao thoát nạn nhờ viên xạ thủ trực thăng Mỹ bắn chết thiếu úy Thức. Sau biến cố nầy, Huỳnh Văn Cao xin nghỉ chức tư lệnh Quân đoàn I. Thiếu tướng Trần Thanh Phong tạm thay, cho đến khi thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Sư đoàn II Bộ binh, nhận chức tư lệnh Quân đoàn ngày 31-5-1966.

Chính phủ trung ương cử thiếu tướng Cao Văn Viên ra Vùng I Chiến thuật, chỉ huy cuộc tái kiểm soát Đà Nẵng và Huế. Khi quân Nhảy dù và TQLC xuất hiện, lực lượng ly khai yếu thế dần dần. Ngày 23-5, nhóm ly khai tại chùa Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng (trên đường Ông Ích Khiêm) buông súng. Thị trưởng Nguyễn Văn Mẫn bị bắt. Trung đoàn 51 Bộ binh bị chận lại ở phía nam Đà Nẵng. Đại tá Đàm Quang Yêu cũng bị bắt ngày 25-5-1966.

Trong khi đó, tại Sài Gòn, chính phủ trung ương triệu tập Đại hội Quân Dân ngày 24-5-1966 tại rạp hát Thống Nhất, gồm khoảng 1,000 đại diện quân đội, hội đồng tỉnh, thị xã, đảng phái, công chức, báo chí...để trình bày về tình hình Đà Nẵng và tình hình miền Trung.

Ngày 31-5-1966, một phái đoàn gồm 6 lãnh tụ Phật giáo do thượng tọa Thích Tâm Châu dẫn đầu, hội đàm với 6 tướng lãnh trong UBLĐQG. Ủy ban LĐQG hứa sẽ tổ chức bầu cử QHLH vào ngày 11-9-1966 và mở rộng UBLĐQG thêm 10 chính khách dân sự. Đó là các ông: Trần Văn Đỗ, Phạm Hữu Chương, Phan Khoang, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Ngọc Trân, Trần Văn Ân, Văn Thành Cao, Nguyễn Lưu Viên, Quan Hữu Kim, Huỳnh Văn Nhiệm. Ngày 6-6-1966, những chính khách dân sự dự họp lần đầu với UBLĐQG.

4. BÀN THỜ PHẬT XUỐNG ĐƯỜNG

Ngày 26-5-1966, tại Huế diễn ra tang lễ thiếu úy Nguyễn Đại Thức, người mưu sát bất thành thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Đoàn biểu tình đốt Phòng Thông tin và thư viện Hoa Kỳ tại Huế, tiêu hủy khoảng 5,000 quyển sách. Huế hoàn toàn hỗn loạn. Trung tá tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm thị trưởng thành phố Huế, phải dời văn phòng ra ngoại ô. Ngày 1-6-1966, cuộc biểu tình đập phá tiếp Tòa lãnh sự Mỹ tại Huế một lần nữa.

Trước áp lực của lực lượng chính phủ, thượng tọa Thích Trí Quang, lãnh tụ Phật giáo tranh đấu, tung ra biện pháp cuối cùng là yêu cầu đồng bào đưa bàn thờ Phật xuống đường ngày 6-6-1966 trong khắp thành phố Huế, để ngăn chận lối đi của quân chính phủ. Nhiều thành phố miền Trung cũng hưởng ứng chiến dịch nầy: Quảng Trị, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Pleiku... Cần chú ý là lúc đó, không phải tất cả Phật tử đồng thuận với biện pháp đưa bàn thờ Phật xuống đường.

Ngày 8-6-1966, thượng tọa Thích Trí Quang tuyệt thực trước tỉnh đường Thừa Thiên, nhưng chưa đầy 24 giờ sau, Thích Trí Quang kiệt sức phải, vào bệnh viện. Lực lượng Nhảy dù và TQLC đến Huế từ ngày 8-6, nhưng chưa dẹp bàn thờ Phật. Ngày 10-6-1966, một tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến (CSDC) được đưa ra Huế tăng cường. Ngày 16-6-1966, đại tá Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc An ninh Quân đội kiêm tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, đích thân chỉ huy lực lượng Nhảy dù và CSDC, khiêng bàn thờ trả lại dân chúng và nhà chùa, khai thông đường đi trong thành phố Huế.

Phe ly khai rút về chùa Diệu Đế, chùa Từ Đàm và vào trong thành Nội, hoàng thành nhà Nguyễn trước đây. Lực lượng Nhảy dù, TQLC và CSDC lần lượt giải tỏa dễ dàng ba địa điểm nầy vào các ngày 18 và 19-6-1966. Thượng tọa Thích Trí Quang được đưa vào Sài Gòn ngày 21-6-1966. Tại các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, phong trào tranh đấu tan rã nhanh chóng. Biến động miền Trung xem như chấm dứt.

III.- HẬU QUẢ

Số người chết và bị thương trong biến động miền Trung lên khá cao. Riêng tại Đà Nẵng, trong cuộc đụng độ đầu tiên giữa phe tranh đấu và lực lượng Nhảy dù ngày 15-5-1966, số người chết lên đến khoảng 150 người và số người bị thương lên khoảng 700 người.(Chính Đạo, sđd tr. 220.) Trong việc chính phủ đưa quân tái kiểm soát Huế, số người chết và bị thương không được biết, số người ly khai bị bắt là 190 quân nhân, 109 công chức, 35 nhân viên cảnh sát.(5)

Đại đa số những người tham gia biến động nầy là Phật tử, nhưng GHPGVNTN chưa có một hệ thống giáo quyền chặt chẽ để kiểm soát các tăng ni và Phật giáo đồ như giáo hội Ky-Tô giáo La Mã, nên những lãnh tụ Phật giáo không kiểm soát được phong trào Biến động miền Trung, và đôi khi bị cuốn hút theo phong trào.

Từ đó, Biến động miền Trung làm chia rẽ các lãnh tụ Phật giáo và làm suy giảm tiềm lực khối Phật giáo. Nguyên khi thượng tọa Thích Trí Quang phát động đợt tranh đấu cuối cùng vào đầu tháng 6-1966, các lãnh tụ Phật giáo ôn hòa ở Sài Gòn phản đối. Thượng tọa Thích Tâm Châu, sau khi tham dự hội nghị World Fellowship of Buddhists (Hội Thân hữu Phật tử Thế giới), trở về Sài Gòn ngày 29-5, thì Việt Nam Quốc Tự, trụ sở Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáoViệt Nam thống Nhất (GHPGVNTN), bị phe quá khích chiếm đóng. Bản thân Thích Tâm Châu bị đe dọa, phải bỏ Việt Nam Quốc Tự đi tỵ nạn. Thượng tọa Tâm Châu nhiều lần lên tiếng chống lại việc đưa bàn thờ Phật xuống đường.(Đoàn Thêm, sđd. tr. 115.) Từ đó, hố chia rẽ giữa hai nhóm ôn hòa và quá khích càng ngày càng sâu rộng, làm cho khối Phật giáo yếu hẳn đi. Một lãnh tụ Phật giáo khác là thượng tọa Thích Thiện Minh bị thương nặng vì bị mưu sát ngày 1-6-1966, mà không tìm ra thủ phạm.

Chắc chắn Cộng sản Việt Nam (CSVN) không bỏ qua cơ hội để lợi dụng Biến động miền Trung, xúi giục những hành vi quá khích trong đám đông, nhằm phá hoại chính quyền, gây rối loạn xã hội và nhất là làm mất uy tín tổ chức Phật giáo, gây chia rẽ giữa Phật giáo với Phật giáo, giữa Phật giáo với các tôn giáo khác, với chính quyền và cả với người Mỹ.

Cần chú ý là CSVN rất lo sợ tất cả những tổ chức quy củ và có hậu thuẫn quần chúng. Ở Việt Nam, các tổ chức có hậu thuẫn quần chúng mạnh mẽ nhất chính là giáo hội các tôn giáo. Đối với tôn giáo, ngoài vấn đề triết thuyết và giáo lý, CSVN rất chú trọng đến sức mạnh quần chúng (tín đồ), thực lực của các tôn giáo. Cộng sản trên thế giới nói chung chống giáo hội Ky-Tô giáo vì sợ khối lượng tín đồ đông đảo của giáo hội nầy. Ở Việt Nam, sau năm 1945, vì lo sợ ảnh hưởng của Cao Đài giáo đối với nông dân miền Đông Nam Việt và ảnh hưởng của Phật giáo Hòa Hảo đối với nông dân miền Tây Nam Việt, nên CSVN đã tìm tất cả các cách để triệt hạ hai tôn giáo nầy.

Sau khi thành lập năm 1964, GHPGVNTN là giáo hội có khối lượng tín đồ đông đảo khắp nước, được hậu thuẫn rộng rãi, nhất là trong giới lao động và dân chúng nông thôn. Vì vậy, GHPGVNTN trở thành một sức mạnh chính trị đáng ngại đối với CSVN. Không thể đánh phá GHPGVNTN như đã từng hãm hại Đức thầy Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo Hòa Hảo sau năm 1945, CSVN kiếm cách phá hoại và gây chia rẽ để cho GHPGVNTN phân hóa và yếu đi. Có như thế, CSVN mới giành được độc quyền lãnh đạo quần chúng.

Trong những cuộc biểu tình, phe tranh đấu đưa ra những biểu ngữ chống Mỹ, lại đốt Phòng Thông tin Hoa Kỳ tại Huế, làm cho người Mỹ càng thêm ủng hộ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Khối Phật giáo Việt Nam cũng mất uy tín trước dư luận thế giới. Ngày 17-6-1966, Hội Phật giáo Thế giới tuyên bố không ủng hộ khối Phật giáo Việt Nam vì tăng ni hoạt động chính trị. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 116.)

Một hậu quả ít ai chú ý là sau khi chính phủ tái kiểm soát miền Trung, một số người, trong đó có thanh niên, sinh viên, học sinh, sợ bị chính quyền quân sự trả thù, đã “nhảy núi” năm 1966, tức lên miền rừng núi theo du kích cộng sản. Những sinh viên thanh niên nầy sau trở về Huế quấy phá và giết hại đồng bào trong biến cố Tết Mậu Thân vào đầu năm 1968.

Hậu quả trầm trọng nhất của Biến động miền Trung là chính phủ VNCH phải dồn sức để ổn định xã hội ở thành phố, khiến nỗ lực chống cộng bị suy giảm. Quân nhân ngoài tiền tuyến, nhất là quân nhân Phật tử không an tâm chiến đấu vì hậu phương bị xáo trộn. Nhờ thế, du kích cộng sản có cơ hội tăng cường hoạt động và phát triển ở nông thôn và miền rừng núi.

Cuối cùng, Biến động miền Trung vẫn đem lại một kết quả quan trọng về phương diện dân chủ hóa là đã thúc đẩy nhà cầm quyền quân sự nhanh chóng tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến ngày 11-9-1966, nhằm soạn thảo hiến pháp. Hiến pháp được ban hành ngày 1-4-1967, làm nền tảng cho Đệ nhị Cộng hòa Nam Việt Nam. Có tất cả 11 liên danh ứng cử tổng thống và phó tổng thống ngày 3-9-1967, trong đó liên danh quân đội của Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đã thắng cử. Tuy các ứng cử viên đối lập cho rằng cuộc bầu cử gian lận, nhưng “đa số trong 22 quan sát viên Hoa Kỳ và 93 quan sát viên của 21 quốc gia đều nhận rằng cuộc bầu cử có nhiều dấu hiệu tự do”.(6) Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thì nhận định: "Cuộc bầu cử tổng thống năm 1967 có thể được coi là lương thiện và tự do.”(7) Có người cho rằng nếu phe dân sự biết đoàn kết thì có thể thắng cuộc bầu cử nầy. (Hoàng Cơ Thụy, sđd. tr. 3339.)

KẾT LUẬN

Tóm lại, Biến động miền Trung không phải là một biến cố địa phương mà là một sự kiện quan trọng có tầm vóc quốc gia. Đặt vụ Biến động miền Trung năm 1966 trong hoàn cảnh lịch sử đầy xáo trộn sau năm 1963, nguyên nhân sâu xa ban đầu của biến động là những đòi hỏi dân chủ hóa đất nước, thiết lập quốc hội lập hiến, trở lại chính phủ dân sự. Việc cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi chỉ là cái cớ làm bùng nổ các cuộc biểu tình.

Biến động miền Trung tuy đã thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa VNCH, nhưng ngược lại Biến động miền Trung đã làm suy yếu GHPGVNTN và nhất là làm suy yếu tiềm lực chiến đấu của Quân lực VNCH. Trách nhiệm sâu xa nhất về biến động nầy là những người muốn mưu cầu quyền lực bằng con đường không thông qua thể chế dân chủ. Trong khi đó kẻ có lợi nhất trong Biến động miền Trung không ai khác hơn chính là CSVN. (Trích Việt sử đại cương tập 6.)

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 16-11-2009)
(phungtrangia@ yahoo.com
)

CHÚ THÍCH

1. Trước tháng 11-1963, thiếu tưóng Trí làm tư lệnh quân đoàn I, thiếu tướng Khánh làm tư lệnh quân đoàn II. Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, hai ông đều được thăng trung tướng và theo lệnh chính phủ mới, hai ông đổi chỗ nhau t ừ tháng 1-1964.
2. Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-32 (2a), tr. 344 (2b).
3. Chính Đạo, Tôn giáo và chính trị, Phật giáo 1963-1967, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 210.
4. Stanley Karnow, Vietnam a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 446.
5. Đoàn Thêm, 1966 Việc từng ngày, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 119.
6. Đoàn Thêm, 1967 Việc từng ngày, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 197.
7. Hoàng Cơ Thụy trích dẫn, Việt sử khảo luận cuốn 6, Paris: Nam Á 2002, tr. 3339.

Thứ Hai, tháng 11 16, 2009

Nhà Trần: Cuộc Chiến lần thứ 2 của Quân Dân Đại Việt với Nguyên Mông - Phần I


Thực hiện : Hiền Vy và Nguyễn Phục Hưng




Thời gian: 1285

Nguyên nhân: Nhà Nguyên tìm mọi cách xâm lược Đại Việt - Quân dân Đại Việt cương quyết chống lại để bảo toàn lãnh thổ

Kết quả: Quân dân Đại Việt chiến thắng . Nguyên Mông phải rút lui khỏi Đại Việt

Thứ Năm, tháng 11 12, 2009

Tài Liệu quan trọng về Chủ Quyền cuả Hoàng Sa

Đây là chứng cứ quan trọng khẳng định chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam.



Văn bản bằng tiếng Pháp của châu bản

Tờ châu bản đề ngày 3/2/1939. Nó đặc biệt ở chỗ có đến 2 văn bản khác nhau (một bản bằng tiếng Việt, một bản bằng tiếng Pháp), nhưng liên quan mật thiết với nhau.

Về hình thức, mỗi văn bản đã được đánh máy trên một mặt của một tờ giấy cỡ 21,5 x 31cm. Đây là một loại giấy tốt, chuyên dùng ở Ngự tiền Văn phòng dưới thời Vua Bảo Đại. Bởi vậy, ở góc phía trên bên trái của mỗi tờ, ngoài hai hàng chữ Pháp "Palais Impérial" (Hoàng cung) và "Cabinet Civil de Sa Majesté" (Ngự tiền Văn phòng), tờ nào cũng có in dòng chữ Hán "Ngự tiền Văn phòng dụng tiên".

Văn bản thứ nhất có nội dung như sau:

Huế, ngày 15 tháng 12 năm Bảo Đại thứ mười ba (3.2.1939)

Ngự tiền Văn phòng kính tâu:

Nay Văn phòng chúng tôi có tiếp tờ thơ số 68-sp ngày 2 tháng 2 năm 1939 của quý Khâm sứ Đại thần thương xin thưởng tứ hạng Long tinh cho M. Fontan, Louis, Garde principal de 1ère classe de la Garde Indigène , vừa tạ thế ở nhà thương Huế; và nhờ chúng tôi tâu lên Hoàng đế ban chuẩn. Phí ngân cấp chỉ và thiệt chất huy chương ấy sẽ do ngân sách Trung Kỳ đài thọ. Vậy chúng tôi xin sao nguyên thơ của quý Khâm sứ Đại thần, phụng đính theo phiếu nầy, kính tâu lên Hoàng đế tài định, hậu chỉ lục tuân. Nay kính tâu, Tổng lý Đại thần, Thần: [ký tên: Phạm Quỳnh].
Văn bản thứ hai gửi từ Toà Khâm sứ Trung Kỳ đóng ở bờ Nam sông Hương và viết bằng tiếng Pháp, được tạm dịch toàn văn như sau:

Huế, ngày 2.2.1939; Khâm sứ Trung Kỳ; Huân chương Bắc đẩu Bội tinh.

Kính gửi ngài Tổng lý Ngự tiền Văn phòng, Huế.

Thưa ngài, tôi kính nhờ ngài vui lòng tâu lên Đức Kim thượng xin phê chuẩn cho một đề nghị là truy tặng Long tinh của Nam triều cho ông Louis Fontan là Chánh cai đội hạng nhất của ngạch lính Khố xanh, vừa tạ thế vào ngày hôm nay tại Nhà thương lớn ở Huế sau khi bị bệnh sốt "typhus" mà ông đã nhiễm phải trong thời gian công tác ở đảo Hoàng Sa.

Trong trường hợp lời đề nghị này được chấp nhận, tôi sẽ rất biết ơn ngài nếu ngài gửi thật gấp bằng khen và huy chương ấy cho tôi qua trương mục ngân sách địa phương. Ký tên: Graffeuil. Sao y nguyên bản, Thương tá Ngự tiền Văn phòng -[Ký tên: Trần Đình Tùng].



Văn bản bằng tiếng Việt có chữ ký của Vua Bảo Đại ở châu bản

Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, nội dung của hai văn bản trên đây có thể gộp chung lại để diễn đạt một cách đơn giản như sau:

"Vào ngày 2.2.1939, Khâm sứ Trung Kỳ Graffeuil gửi cho Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh một văn thư đề nghị tâu xin Hoàng đế Bảo Đại truy tặng Huy chương Long tinh của Nam triều cho ông Louis Fontan - người vừa qua đời trong ngày hôm ấy.

Trước đó, ông này giữ chức vụ Chánh cai đội hạng nhất của đội lính Khố xanh trú đóng tại đảo Hoàng Sa. Trong thời gian ra công tác tại đây, ông đã bị nhiễm phải một loại bệnh sốt rét rất nguy hiểm, rồi mất tại Nhà thương lớn ở Huế. Ngay sau khi ông lâm chung, văn thư vừa nêu liền được tống đạt.

Sau khi nhận được văn thư này, Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh giao cho quan chức dưới quyền trực tiếp của mình là Thương tá Trần Đình Tùng trách nhiệm sao y nguyên văn một bản để đính kèm vào tờ phiến đệ trình lên nhà vua.

Ngày 3.2.1939, nghĩa là chỉ một hôm sau, tờ phiến và bản sao văn thư ấy được Ngự tiền Văn phòng dâng lên Vua Bảo Đại. Trong tờ phiến, ông Tổng lý tuy không nhắc lại nguyên nhân cái chết của ông Fontan (vì đã có nói rõ ở văn thư đính kèm rồi), nhưng đề nghị ban thưởng "tứ hạng Long tinh" cho viên chức người Pháp ấy. Đây là một thái độ coi trọng những người thuộc chính quyền bảo hộ có công phòng thủ đảo Hoàng Sa của Nam triều.

Đọc xong tờ phiến và văn thư đính kèm, Vua Bảo Đại chấp nhận ngay những lời đề nghị trong đó. Nhà vua đã "ngự phê" hai chữ "Chuẩn y" và ký tắt hai chữ "BĐ" (Bảo Đại) bằng viết chì màu đỏ".

Điều này có nghĩa là ngay sau đó, mọi việc cứ thế mà thi hành.

Cũng theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An: "Chúng ta cần chú ý, mặc dù Louis Fontan là người Pháp, nhưng vì đã bất chấp gian khổ để giữ đảo Hoàng Sa cho Việt Nam, cho nên Nam triều đã đánh giá cao công lao của ông ngay khi ông qua đời.

Tờ châu bản này khẳng định thêm một lần nữa là trước khi diễn ra Thế chiến thứ hai và quân đội Nhật xâm chiếm vùng Châu Á - Thái Bình Dương, đảo Hoàng Sa đã thuộc chủ quyền của Việt Nam. Và sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc thì Hoàng Sa vẫn trở lại thuộc chủ quyền của nước ta như cũ".

Thứ Hai, tháng 11 02, 2009

Nhà Trần: Trận chiến giữa quân dân Đại Việt và Nguyên Mông lần thứ nhất




Hiền Vy và Nguyễn Phục Hưng thực hiện
...


Nửa đêm ngày 28 tháng 1 năm 1258 , từ nơi trú quân là Hoàng Giang, Trần Thái Tông cùng Thái tử Trần Hoảng ngược sông, bất ngờ đánh thẳng vào quân Mông Cổ. Quân Mông Cổ cho rằng lực lượng quân Trần đã kiệt quệ sau trận thua đầu nên rất chủ quan, do đó khi bị tập kích đã không kịp trở tay, bị thua to.

Chủ Nhật, tháng 11 01, 2009

Lễ Giỗ lần thứ 46 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại Houston

Hôm nay, ngày 1 tháng 11 năm 2009 tại Nhà Thờ La Vang TP Houston - TX - USA Cộng đồng Người Việt Quốc Gia đã qui tụ lại để làm Lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị Tổng Thống của Nền Đệ I Công Hòa đã bị Chánh phủ Hoa Kỳ và các phản Tướng VNCH làm đảo chánh ngày 1/11/1963 và giết chết Ông và Bào đệ là Ông Ngô Đình Nhu ngày 2/11/1963.

Đã 46 năm trôi qua, nhưng trong lòng người Việt của Miền Nam Việt Nam vẫn luôn tưởng nhớ đến Người.

Sau đây là một số hình ảnh do Bùi Ngọc Thắng chụp và bienchet thực hiện vào video maker.

Phần 1 : Buổi lễ được Tổ chức theo Nghi lễ Thiên Chúa Giáo trong Nhà Thờ La Vang :



Phần 2 : Lễ Truy điệu tại Hội trường Nhà Thờ La Vang :


Thứ Sáu, tháng 10 30, 2009

Khui hồ sơ "Tối Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Phần 1 :

Phần 2 :

Phần 3 :

Phần 4 :

Phần 5 :



Khui hồ sơ "Tối Mật":
Mỹ chủ mưu thanh toán anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm

• Ngô Kỷ tổng hợp và chuyển ngữ
Tác giả: Ngô Kỷ


Đảo chánh! đảo chánh!!!
Ngày 01 tháng 11 năm 1963, 43 năm qua, có thể chuyện đã trở thành cũ so với một đời người, nhưng lại quá mới nếu đem so với chiều dài của lịch sử. Từ trước đến nay, có rất nhiều cựu tướng lãnh, chính trị gia Việt Nam lẫn Mỹ viết những cuốn hồi ký nói về ngày đảo chánh, nhưng hầu hết đều có tính cách chủ quan và mang màu sắc đánh bóng, chạy tội.

Vì viết về "cái tôi" nên các chi tiết họ đưa ra chứa đầy thiên kiến, ích kỷ và cố tạo thành một "diễn đàn" để nhục mạ đối tượng nhằm thỏa mãn tự ái và trốn chạy mặc cảm tội lỗi. Vì không đồng ý với lề lối viết đó, nên chúng tôi cố gắng sưu tầm và trích dịch một số dữ kiện có tính cách khả tín vì được trình bày trùng hợp với nhau từ hơn chục quyển sách ngoại quốc. Các chi tiết này được thâu thập từ văn khố chính phủ, từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp, từ các bản tự thú hữu thệ và từ các buổi điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ v.v...


Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Trong tập tài liệu này, có đề cập đến những chữ như "chính phủ Diệm", "Tổng Thống Diệm", điều đó không nhất thiết Tổng Thống Diệm là người đích thân hay trực tiếp ra lệnh, sắp xếp, thông tường tất cả mọi sự kiện, vấn đề đang xảy ra trong nước. Nhưng vì với chức vụ Tổng Thống, nên Tổng Thống Diệm phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hành động, lời nói của thuộc cấp, luôn cả của ông bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn v.v...

Vì đề tài quá rộng lớn và vô cùng phức tạp, vì chúng tôi không phải là sử gia, do đó các chi tiết trong tập tài liệu chỉ có tính cách tóm lược mà
thôi. Vì tôn trọng sự trung thực của vấn đề, chúng tôi cố gắng giữ vai trò thật khách quan trong khi dịch thuật, mà không suy diễn, không phân tích, không ca ngợi, không chỉ trích, không vu cáo, không bênh vực, không lên án, không bào chữa...

Chúng tôi chỉ ước ao những người từng chủ trương, tham dự cuộc đảo chánh năm 1963 nhân danh vì đạo pháp, vì tự do, vì dân chủ, vì nhân quyền, vì hạnh phúc, vì độc lập dân tộc, thì cũng xin đừng quên rằng hiện nay nơi quê nhà, Cộng Sản Việt Nam là một tập đoàn "đảng trị", đang kỳ thị, đàn áp, bắt bớ, giam cầm các lãnh tụ tôn giáo, đang đóng cửa, tịch thu các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, đang thủ tiêu, giết chóc các nhà chính trị đối lập, đang liếm gót giày Nga, Tàu, "đế quốc Mỹ", và đang vi phạm gấp hàng triệu lần những gì mà quý vị đã từng hô hào xuống đường, tranh đấu.

Nếu quý độc giả cần thêm tài liệu, hình ảnh, hay nguyên bản, xin liên lạc về:
Ngô Kỷ, P.O.Box 836 , Garden Grove , Ca 92842.
Email: ngokyusa@yahoo.com


Tổng Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm
Tiểu sử và sự nghiệp tổng thống Ngô Đình Diệm

Ông Ngô Đình Diệm sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 trong một gia đình có 9 người con. Thân phụ là ông Ngô Đình Khả từng phục vụ dưới triều vua Thành Thái. Ông Diệm thuộc gia đình Công Giáo và từng có ý muốn lớn lên làm linh mục. Học trường Quốc Học Huế và tốt nghiệp lúc 16 tuổi. Sau đó ghi danh học trường Luật và Quản Trị của Pháp ở Hà Nội, tỏ ra là một sinh viên thông minh, xuất sắc và ra trường đứng đầu lớp. Tốt nghiệp, ông Diệm đi làm việc ngay cho chính phủ.

Ông tiến thân rất mau trên con đường công danh. Lần lượt ông được bổ nhậm vào các chức vụ: Quan Hậu Bổ, Tri Huyện tỉnh Thừa Thiên, Tri Phủ tỉnh Quảng Trị, Quản Đạo Ninh Thuận tỉnh Phan Rang và Tuần Vũ Bình Thuận tỉnh Phan Thiết.



TT. Ngô Đình Diệm và gia đình tại Phu Cam, Hue
Là người Việt Nam ái quốc, ông Diệm chống đối sự đô hộ của Pháp và lên án chủ nghĩa Cộng Sản, mà theo ông đó là kẻ thù của người Việt Quốc Gia. Vì thấy ông Diệm có khả năng và năng động, nên vào ngày 02 tháng 03 năm 1933, Vua Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm nắm chức vụ Thượng Thư Bộ Lại đứng đầu nội các (tương đương với Bộ Nội Vụ).

Ông Diệm rất thích thú với công việc mới này, ông đưa ra một số biện pháp và chương trình cải tổ guồng máy cai trị, nhưng bị Vua Bảo Đại và Pháp từ chối. Thất vọng và bất mãn, ông từ chức và không giữ chức vụ gì sau đó nữa cho đến khi ông làm Thủ Tướng vào năm 1954.

Ông Diệm sống tại nhà của thân sinh gần Huế. Ông từ chối mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nhưng ông từ chối với lý do Việt Minh giết anh cả của ông.

Năm 1949, Pháp lập lên chính phủ Bảo Đại, ông Diệm yêu cầu Vua Bảo Đại đòi Pháp nới rộng tự do cho đất nước, nhưng bị từ chối nên ông Diệm rất thất vọng.


Ngày 2 tháng 1 năm 1955, Tổng Thống Ngô Đình Diệm xuất hiện trong buổi lễ long trọng mừng ngày thành lập chính thể Việt-Nam Cộng-Hoà tại Sài Gòn.


Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ và sống 2 năm tại Lakehurst , New Jersey . Ông đi vòng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam . Ông Diệm nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đức Hồng Y Francis Cardinal Spellman, Phát ngôn viên của Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Hồng Y Richard Cardinal Cushing, Linh Mục Raymond J. de Jaegher, Thượng Nghị Sĩ William F. Knowland, Thượng Nghị Sĩ John Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Chánh Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ William O. Douglas.

Vào năm 1954, khi có triệu chứng Pháp thua tại Đông Dương và Cộng Sản có cơ hội chiếm Việt Nam , Hoa Kỳ quyết định can thiệp để thay thế Pháp và cố bảo vệ miền Nam Việt Nam. Chính phủ Mỹ muốn tìm người để ủng hộ. Lúc đó Ngoại Trưởng Mỹ John Foster Dulles biết được ông Diệm. Với tài quản trị, ái quốc, và chống Cộng triệt để, ông Diệm lấy được cảm tình của nhân dân Mỹ.
Vua Bảo Đại cử ông Diệm làm Thủ Tướng. Về nước ngày 25 tháng 06 năm 1954, ông Diệm lấy làm lo lắng và xót xa khi thấy quốc gia đang bị băng hoại, tham ô, và quan lại. Ông phải phấn đấu và giữ sáng suốt để đương đầu trước một hoàn cảnh đầy khó khăn, phức tạp và tế nhị khi hai cường quốc Pháp và Mỹ đang tranh giành xâu xé ảnh hưởng tại Việt Nam .




Tổng Thống Mỹ Eisenhower với nghi lễ tiếp đón Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tháng 5 năm 1957.



Vào ngày 01 tháng 10 năm 1954, Tổng Thống Mỹ Eisenhower viết cho ông Diệm một lá thư và được Đặc Sứ Mỹ Donald R. Heath trao vào ngày 23 tháng 10 năm 1954 với nội dung Mỹ cam kết ủng hộ kinh tế và quân sự cho chính phủ Ngô Đình Diệm.

Những nhân vật Mỹ chính yếu đứng sau lưng ông Diệm thời đó là Giám Đốc Cơ Quan Trung Ương Tình Báo (CIA) Đại Tá Không Quân Edward G. Landsdale và Tướng J. Lawton "Lightning Joe" Collins, Đặc Sứ của Tổng Thống Eisenhower đặc trách miền Nam Việt Nam.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý. Ông Diệm đạt 98.2% phiếu thắng Vua Bảo Đại, và ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.

Trong 9 năm thăng trầm của lịch sử, có những lúc Tổng Thống Diệm phải đương đầu với ý muốn bành trướng quân đội Mỹ tại Việt Nam . Vì muốn có chủ quyền và khỏi mất chính nghĩa, nên Tổng Thống Diệm mạnh mẽ chống lại việc đưa lính "tác chiến" Mỹ vào Việt Nam, ông chỉ nhận viện trợ và cho phép Cố Vấn Mỹ vào Việt Nam mà thôi, sự kiện này đã sinh ra bất đồng giữa hai chính phủ.

Sau những chua cay ngọt bùi, khó khăn, nguy hiểm, vinh nhục trong chức vụ Tổng Thống, sự nghiệp và sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã kết thúc vào năm 1963, mà bắt nguồn từ biến cố Phật Giáo ngày 08 tháng 05 năm 1963 tại Huế.

Diễn biến đưa đến đảo chánh

Ngày 05 tháng 05 năm 1963, thành phố cổ kính Huế treo đầy cờ và khẩu hiệu để mừng Đức Giám Mục Ngô Đình Thục, bào huynh của Tổng Thống Diệm. Trong số cờ đó có cờ của Giáo Hội Công Giáo Vatican tức cờ nửa vàng nửa trắng và hình Đức Giáo Hoàng. Biểu tượng này được nhìn như là Tòa Thánh Vatican công nhận miền Nam và đạo Công Giáo tại Việt Nam , xóa đi hình ảnh đô hộ của Pháp Quốc lâu nay.

Ngày 08 tháng 05 năm 1963, Phật tử tại Huế treo cờ Phật Giáo để mừng Đại Lễ Phật Đản thứ 2.507, nhưng chính quyền không cho phép. Vì tức giận, tối đó một số Phật tử kéo đến biểu tình tại đài phát thanh để phản đối chính quyền. Trong khi xô xát, một quả bom nhỏ hay một trái lựu đạn phát nổ, tình hình hổn loạn. Kết quả có 9 người chết, trong đó có một trẻ em, và 20 người khác bị thương.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge

Chính quyền quy kết Cộng Sản trà trộn đặt chất nổ giết người để gây xáo trộn. Phía biểu tình kết án Thiếu Tá Đặng Sỹ ra lệnh nổ súng giết người biểu tình. Theo lời kể của ông Lãnh Sự Mỹ tại Huế: "Lính chính quyền hốt hoảng vì tiếng nổ và la hét của đám biểu tình nên xả súng bắn vào đám biểu tình". Ông John Mecklin, Phát ngôn viên tòa Đại Sứ tuyên bố: "Cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản không khác chi đi cấm người Mỹ hát nhạc mừng trong ngày Chúa Giáng Sinh". Cũng có tin cho rằng chính phủ Tổng Thống Diệm không cho phép treo cờ Phật Giáo lớn hơn và ngang hàng với cờ Quốc Gia Việt Nam vì đó là theo luật lệ của chính phủ đã có từ lâu, chứ không phải là cấm treo cờ Phật Giáo.

Vào thời điểm này, Phật giáo có khoảng 10.5 triệu người, và Công Giáo có khoảng 1.5 triệu người.

Hôm sau, ngày 09 tháng 05 năm 1963, hơn 10 ngàn người kéo đến nhà Tỉnh Trưởng Huế biểu tình và đòi hỏi 5 điểm:

1. Hủy bỏ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo.
2. Phật Giáo được quyền bình đẳng như Công Giáo.
3. Không được đàn áp Phật Giáo.
4. Phật Giáo được quyền thờ phượng tôn giáo của mình.
5. Chính quyền phải bồi thường cho các gia đình nạn nhân, và phải trừng trị các người có trách nhiệm trong vụ bắn chết người trong ngày 08 tháng 05 năm 1963.

Ngày 15 tháng 05 năm 1963, phái đoàn Phật Giáo gồm 8 người từ Huế vào Sài Gòn trình kiến nghị cho Tổng Thống Diệm. Tổng Thống Diệm đồng ý hầu hết các yêu sách, và hứa sẽ điều tra. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm không chịu bồi thường cho các gia đình nạn nhân vì sợ Phật Giáo làm tới. Nhưng tuần sau Tổng Thống Diệm đổi ý, không chịu nhượng bộ Phật Giáo, sự kiện này làm Phật Giáo bất mãn.

Ngày 28 tháng 05 năm 1963, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Lãnh Đạo Phật Giáo Việt Nam lên tiếng kêu gọi biểu tình. Tại Huế, hàng ngàn tăng ni xuống đường.


Tổng Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm

Tại Sài Gòn hàng trăm tăng ni biểu tình và tuyệt thực 48 giờ trước Quốc Hội. Đại Sứ Mỹ Frederick E. Nolting vắng mặt tại Sài Gòn, Bộ Ngoại Giao Mỹ Mỹ chỉ thị ông Phó Đại Sứ William C. Trueheart (Deputy Chief of Mission ) giải quyết.

Ngày 02 tháng 06 năm 1963, tại Huế, 500 sinh viên biểu tình chống chính quyền kỳ thị. Biến thành bạo động, cảnh sát dùng chó, lựu đạn cay tấn công đoàn biểu tình, 67 sinh viên bị thương phải vào bệnh viện. Chính quyền ra lệnh giới nghiêm Huế và cho cảnh sát, công an kiểm soát đường phố.

Để tránh đụng chạm, Tổng Thống Diệm thải hồi 3 viên chức có trách nhiệm vụ bắn chết người biểu tình ngày 08 tháng 05 năm 1963, trong đó bị thải hồi có Thiếu Tá Đặng Sỹ. Chính quyền lên tiếng xin lỗi Phật Giáo, nói là các nhân viên chính quyền đã thiếu tế nhị khi hành xữ công tác và hứa sẽ cho một phái đoàn chính phủ tiếp xúc với Phật Giáo để bồi thường các gia đình nạn nhân.

Ngày 04 tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart gặp Ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để yêu cầu giải quyết. Phật Giáo có gặp nhưng hai bên bất đồng ý kiến.

Ngày 07 tháng 06 năm 1963, bà Ngô Đình Nhu tức bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và lên án những vị lãnh tụ Phật Giáo do Cộng Sản giật dây.

Sáng ngày 11 tháng 06 năm 1963, Phát ngôn viên của Phật Giáo thông báo cho các phóng viên, ký giả Mỹ biết sẽ có một biến cố quan trọng sẽ xảy ra tại ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng thành phố Sài Gòn. Hàng ngàn tăng ni, phật tử đứng chung quanh, HòaThượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi bình thản tự thiêu bằng xăng. Chính quyền tuyên truyền rằng Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngồi bình tỉnh là do bị chích ma túy nên không biết nóng.

Bà Ngô Đình Nhu tuyên bố về cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức: "Tất cả cái mà các vị lãnh đạo Phật Giáo đóng góp vào quốc gia này là đi nướng một vị tăng (barbecue)". Chính quyền Tổng Thống Diệm cho rằng việc tự thiêu là do Cộng Sản sắp đặt, và chính Đại Sứ Mỹ Nolting cũng ủng hộ lời giải thích này, ông nói: "Theo tôi nghĩ, đây là do Việt Cộng. Động lực thúc đẩy việc này là do chính trị chứ không phải do vấn đề tín ngưỡng".

Thượng Toạ Thích Quảng Ðức tự thiêu lúc 9:22 sáng ngày 11 tháng 6 nãm 1963


Cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức là ngọn lửa châm ngòi cho Phật Giáo đấu tranh kịch liệt và mạnh mẽ hơn. Hình ảnh tự thiêu đã gây xúc động nhân dân, chính phủ Mỹ và toàn thế giới. Chính phủ Mỹ lên án Tổng Thống Diệm. Bộ Ngoại Giao Mỹ chỉ thị Phó Đại Sứ Trueheart bí mật tiếp xúc với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ để báo tin cho biết là Mỹ sẽ ủng hộ Phó Tổng Thống Thơ nếu Tổng Thống Diệm ra đi.

Vì thấy Đại Sứ Mỹ Nolting quá thân với Tổng Thống Diệm, nên Tổng Thống Kennedy tuyên bố thay thế Đại Sứ Nolting bằng tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge trong khi Đại Sứ Nolting đang đi Âu Châu mà không thông báo cho ông biết.

Đại Sứ Nolting chỉ được biết qua đài phát thanh mà thôi. Tức bực, Đại Sứ Nolting phát biểu: "Tôi nói thẳng là tôi nghĩ có một số người có thế lực tại Bộ Ngoại Giao, họ là những người rất vui mừng khi thấy tôi phải ra đi bởi vì họ muốn cho ông Diệm thật nhiều sợi dây thừng để ông tự treo cổ ông ta. Có một chiến dịch đạp đổ ông Diệm làm tôi nghĩ rằng nó phát xuất từ các ông Thứ Trưởng Averrell Harriman, Roger Hilsman và một số viên chức trong Tòa Bạch Ốc. Điều đó đi ngược lại sự cố vấn của CIA. Tôi muốn các điều tôi nói đây được ghi vào hồ sơ".

Sau này, Tướng Maxwell D. Taylor, từng là Chủ Tịch Liên Quân Hoa Kỳ (Tổng Tham Mưu Trưởng) thời đó kể lại là Ban Cố Vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm 2 phe: một phe thì muốn lật đổ Tổng Thống Diệm vì nói là "không thể thắng Cộng Sản nếu còn Tổng Thống Diệm", còn phía ủng hộ Tổng Thống Diệm mà trong đó có Tướng Taylor thì nói là "có thể chúng ta không thể thắng Cộng Sản nếu đi với Tổng Thống Diệm, nhưng nếu không đi với Diệm thì đi với ai?" Mọi người đều im lặng, không ai trả lời được câu này.

Ngày 16 tháng 06 năm 1963, Ủy Ban Chính Phủ và Phật Giáo ký bản Thông Cáo Chung, đồng ý thỏa mãn các đòi hỏi của Phật Giáo, nhưng lại không nhận trách nhiệm. Báo chí Mỹ, đài VOA chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm. Phật Giáo thay thế Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết bằng Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo cuộc đấu tranh. Theo báo cáo của CIA, Thượng Tọa Thích Trí Quang là người Bắc, sinh năm 1922, là "một người khôn lanh, thâm hiểm, không tình cảm, có mưu đồ chính trị và đầy tham vọng lãnh tụ".

Ngày 25 tháng 06 năm 1963, Trưởng Phòng CIA John Richardson tại Sài Gòn (CIA Chief Station) thất bại trong việc đứng ra điều đình giữa chính quyền Tổng Thống Diệm và Phật Giáo. Ông Cố Vấn Nhu nói: "Các lãnh tụ Phật Giáo không bao giờ tuyên bố và cũng không bao giờ chống Cộng Sản cả". Ông Nhu cũng chỉ trích thái độ mềm dẽo của Tổng Thống Diệm vì làm như vậy khiến cho chính quyền khó giải quyết vấn đề. Ông Nhu tuyên bố: "Nếu chính phủ không áp dụng luật pháp thì chính phủ sẽ sụp đổ và tôi là người đầu tiên nghĩ như thế". Ông Nhu hàm ý rằng trong tình trạng khẩn trương của đất nước, nếu cần, ông sẽ đứng ra ngoài tình cảm gia đình, ông có thể chống cả chính phủ và Tổng Thống Diệm.

Khi thấy phong trào đấu tranh của Phật Giáo bùng nổ mạnh mẽ dưới sự chỉ đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang, Tổng Thống Kennedy hỏi ông Phụ Tá Tổng Thống Michael Forrestal rằng: "Họ là ai? Tại sao chúng ta không biết đến họ trước kia vậy?”

Những ngày cuối tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart tiếp xúc Tổng Thống Diệm hàng ngày để đòi hỏi Tổng Thống Diệm nhượng bộ Phật Giáo. Vì thấy Tổng Thống Diệm không nghe lời, Phó Đại Sứ Trueheart đe dọa Mỹ sẽ không ủng hộ chính phủ Tổng Thống Diệm. Bị xúc phạm bởi những lời đe dọa của Mỹ, kể từ đây Tổng Thống Diệm tỏ ra bất cần Mỹ, và kêu gọi dân chúng thắt lưng buộc bụng để độc lập với Mỹ.


Ông Ngô Đình Nhu


Ngày 04 tháng 07 năm 1963, tờ báo viết bằng Anh ngữ Times of Viet Nam do ông Nhu tài trợ viết bài tấn công Mỹ và nói Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vì bị chích ma túy.

Tại Hoa Thịnh Đốn, các giới chức cao cấp Bộ Ngoại Giao phúc trình Tổng Thống Kennedy biết tình trạng bất ổn tại Việt Nam và kết tội ông Nhu phá hoại bản Thông Cáo Chung ký ngày 16 tháng 06.

Tại Hoa Thịnh Đốn, bàn tán xôn xao về kế hoạch loại ông Cố Vấn Nhu và bà Nhu ra khỏi chính quyền. Đại Sứ Nolting được gọi họp tại Tòa Bạch Ốc. Tại đây, ông Nolting khuyến cáo Tổng Thống Kennedy rằng nếu đảo chánh sẽ tạo ra nội chiến, và ông Nolting hy vọng là ông có thể thuyết phục được Tổng Thống Diệm. Mặc dù Tổng Thống Kennedy đã tuyên bố bổ nhiệm ông Henry Cabot Lodge thay thế ông Nolting để làm đại sứ tại Việt Nam, nhưng Tổng Thống Kennedy lại chỉ định ông Nolting qua Sài Gòn lần nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm.

Ngày 11 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting trở lại Sài Gòn. Tuyên bố với báo chí, ông nói ông qua lần này nhằm thuyết phục Tổng Thống Diệm thay đổi lập trường. Ông khuyến khích Tổng Thống Diệm lên đài phát thanh để nhận lỗi về việc tranh chấp với Phật Giáo.

Ngày 18 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting dành cả ngày thuyết phục, khuyến khích, yêu cầu và ngay cả đe dọa Tổng Thống Diệm, tuy nhiên không đạt được gì khả quan cả, trừ việc Tổng Thống Diệm đồng ý lên đài phát thanh để hứa "cộng tác" chặt chẽ với Phật Giáo. Vụ tự thiêu lần thứ hai xảy ra.

Ngày 19 tháng 07 năm 1963, Tổng Thống Diệm nói trên đài phát thanh chỉ 2 phút. Với giọng nói lạnh lùng, Tổng Thống Diệm hứa hẹn rất ít, yêu cầu mọi người kính trọng chức vụ Tổng Thống của ông, và hứa sẽ chỉ định một Ủy Ban Chính Phủ khác điều tra các khiếu nại của Phật Giáo. Dù vậy, cảnh sát vẫn tiếp tục bao vây các chùa chiền bằng dây kẽm gai.

Ngày 05 tháng 08 năm 1963, tại Phan Thiết, sư Nguyên Hương tự thiêu bằng xăng.

Ngày 13 tháng 08 năm 1963, một vị sư ở Huế quấn cờ Phật Giáo tự thiêu.

Tại Ninh Hòa, một ni cô ngồi tại nhà thờ Công Giáo tự thiêu.

Ngày sau đó, một vị sư 71 tuổi tự thiêu trong sân chùa Từ Đàm Huế.

Vì phong trào Phật Giáo đấu tranh mạnh tại Huế và Nha Trang, nên chính quyền Tổng Thống Diệm ban tình trạng thiết quân luật tại hai tỉnh này. Quân đội xao động, truyền đơn rải cùng các căn cứ lính. Các quân nhân bắt đầu mang khăn quàng vào tay ủng hộ Phật Giáo đấu tranh.

Ngày 14 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting từ biệt Tổng Thống Diệm về Mỹ. Ông Nolting yêu cầu Tổng Thống Diệm thỏa hiệp với Phật Giáo và muốn Tổng Thống Diệm lên tiếng phủ nhận lời tuyên bố "đổ dầu vào lửa" của bà Nhu, cũng như muốn Tổng Thống Diệm cho biết ai là người thực sự lãnh đạo đất nước. Nếu Tổng Thống Diệm không thực hiện các điều kể trên thì "chính phủ Mỹ khó có thể tiếp tục giữ tình hữu nghị như hiện tại".


Ông cố vấn Ngô Đình Nhu, bào đệ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Tổng Thống Diệm nói với Đại Sứ Nolting rằng Hoa Kỳ phải nên hiểu rằng việc rối rắm này "không phải do Phật Giáo mà cũng chẳng phải do gia đình ông tạo nên". Tuy nhiên, có lẽ vì chỗ thân tình với ông Nolting nên Tổng Thống Diệm hứa là sẽ đưa ra một bản Thông Cáo. Thế nhưng, trong buổi phỏng vấn ngày sau đó, Tổng Thống Diệm lại tuyên bố: "Chính sách liên kết với Phật Giáo của tôi không thể thực hiện được".

Chính phủ Tổng Thống Diệm muốn đánh một ván bài chót là đàn áp Phật Giáo thật mạnh mẽ, với hy vọng là nếu thành công thì đây là món quà đón tiếp tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Mỹ cho đây là kế hoạch của ông Cố Vấn Nhu.

Ngày 15 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting rời Sài Gòn. Ông Nhu cảnh giác cho các tướng lãnh Việt Nam biết chính sách Mỹ thay đổi và có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam . Ông trưng dẫn bằng chứng là Mỹ vừa ký thỏa hiệp cấm thử bom nguyên tử với Liên Sô, có nghĩa là Mỹ đi hòa hoãn với Cộng Sản.

Ngày 20 tháng 08 năm 1963, mười vị tướng lãnh yêu cầu Tổng Thống Diệm ban bố tình trạng thiết quân luật để quân đội có thể đưa các vị tăng ni ngoài Sài Gòn trở về chùa. Tối đó, ông Nhu tự ý hành động mà không thông báo cho các tướng lãnh. Tấn công chùa Xá Lợi, phá cửa chính bằng súng, lựu đạn cay, bắt bớ lên xe. Tại Huế, lực lượng an ninh dùng súng tiểu liên M1 bắn chùa Từ Đàm, bắn bể tượng Phật và tịch thu 30 ngàn mỹ kim của chùa. Gần chùa Diệu Đế, đàn bà, đàn ông, trẻ em đương đầu với cảnh sát. Sau năm tiếng đồng hồ xô xát cho đến khi có xe tăng tới, tại chùa có 30 người chết, 200 bị thương và chở giam 10 xe người.

Ngày 21 tháng 08 năm 1963, sau khi Tổng Thống Diệm ban bố tình trạng thiết quân luật, ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (Special Forces) do Đại Tá Lê Quang Tung cầm đầu, và Cảnh Sát Dã Chiến (Combat Police) tấn công chùa chiền. Có khoảng 2 ngàn chùa chiền bị bố ráp trên toàn quốc và bắt giam hơn 1.400 vị tăng ni. Ít nhất có năm mươi đến hàng trăm người bị chết. Sự kiện này đã làm cho Mỹ tại Sài Gòn cũng như Hoa Thịnh Đốn bực tức và lên án Tổng Thống Diệm gắt gao. Tại Honolulu, ông Nolting gặp tân Đại Sứ Lodge và một số giới chức Mỹ. Ông Nolting gởi cho Tổng Thống Diệm một điện thư: "Đây là lần đầu tiên ông đã nuốt lời hứa với tôi". Hết sức chịu đựng, và không còn nhẫn nại được nữa, Tổng Thống Kennedy quyết định giao cho CIA giải quyết vấn đề.

Cũng trong ngày này, 6 giờ sáng, đài phát thanh Sài Gòn phát thanh lời Tổng Thống Diệm nói rằng 3 tháng thương thảo với Phật Giáo thất bại. Ông tuyên bố toàn nước đặt trong tình trạng thiết quân luật. Binh sĩ tại Sài Gòn mặc áo giáp, mang tiểu liên, lựu đạn cay và canh gác khắp các ngã đường, các cây cầu chính yếu. Xe Jeep trang bị súng lớn 30 caliber tuần tiểu thành phố. Sinh viên xuống đường biểu tình bất tuân lệnh thiết quân luật.


BộTrưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu từ chức, cạo trọc đầu để phản đối Tổng Thống Diệm và xin đi Ấn Độ tu học. Tệ hại hơn là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ là ông Trần Văn Chương, thân sinh của bà Trần Lệ Xuân (tức bà Nhu) từ chức và chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm là chế độ độc tài. Phái đoàn Mỹ cứu trợ phải quay trở lại Mỹ vì cảnh sát không cho phép máy bay hạ cánh. Chính phủ Mỹ bị hiểu lầm là đứng sau vụ đàn áp Phật Giáo.

Ngày 22 tháng 08 năm 1963, lúc 9 giờ 30 tối, tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Tân Sơn Nhất, Sài Gòn.


CIA Lucien E. Conein


Ngày 23 tháng 08 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn mời ông CIA Lucien Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu để nhận thư trao tận tay cho tân Đại Sứ Lodge, nói là quân đội không có nhúng tay trong việc đàn áp Phật Giáo vừa rồi. (Ông Lucien Conein, CIA Operative, giữ vai trò chính yếu trong việc phối hợp với các tướng đảo chánh).

Tướng Lê Văn Kim là phụ tá của tướng Đôn và là anh em rể của tướng Đôn đòi triệt hạ ông Nhu và yêu cầu chính phủ Mỹ lên tiếng ủng hộ thì quân đội sẽ đứng lên lật đổ chính phủ Tổng Thống Diệm.

Bí thư của Tổng Thống Diệm là ông Võ Văn Hải yêu cầu bảo toàn Tổng Thống Diệm nếu loại bỏ ông Nhu. Tân Đại Sứ Lodge báo cáo về Hoa Thịnh Đốn tất cả sự kiện, nhưng ông Lodge không ủng hộ việc loại bỏ ông Nhu. Ông Lodge khuyên nếu Mỹ ủng hộ đảo chánh thì nên núp trong bóng tối.

Bức điện văn tố cáo "ông Nhu đang bị dân chúng chán ghét" được gởi đến bàn ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Roger Hilsman. Ông Hilsman lên án ông Nhu và nói rằng nếu còn ông Nhu thì chẳng những đưa miền Nam Việt Nam vào thảm họa, mà còn kéo theo Mỹ xuống bùn đen nữa. Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Đặc Trách Chính Trị Vụ Averell Harriman cũng đồng ý là Mỹ không nên ủng hộ chính phủ Diệm-Nhu nữa.

Ngày 24 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge đánh điện văn cho Bộ Ngoại Giao. Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman phúc đáp, chỉ thị cho tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn tiếp xúc với các tướng lãnh để thực hiện đảo chánh.

Trúng vào thứ bảy cuối tuần, Tổng Thống Kennedy, Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara không có mặt tại Hoa Thịnh Đốn, nhưng các phụ tá của họ như ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman, và ông Phụ Tá Tổng Thống Forrestal có mặt làm việc, với sự hỗ trợ của Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman. Các người này thảo một bức điện văn để trả lời cấp tốc cho Đại Sứ Lodge. Bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8 năm 1963 này có nội dung như sau:

"Bộ Ngoại Giao gởi Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay lập tức.
Tối Mật. Không được phép phổ biến.
Chỉ đích thân Đại Sứ Lodge mới được phép đọc mà thôi. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ Đô Đốc Felt được phép đọc mà thôi.
Theo CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon 329. (Các con số là những ký hiệu mật mã).


Bức điện thư Mỹ ra lệnh thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu ngày 24 tháng 8 năm 1963.


Bây giờ thì rõ là hoặc quân đội đề nghị lệnh thiết quân luật hoặc ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã lợi dụng tình trạng đó để tấn công chùa chiền bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngỡ lầm rằng quân đội làm. Hơn nữa, cũng thật quá rõ là ông Nhu đã âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí chỉ huy.

Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và các chính trị gia có tư cách.

Nếu ông (tức Đại Sứ Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại được.

Ký tên: Hilsman, Forrestal, Ball, W.Everell Hariman ".

Sau khi soạn bản điện văn này, ông Forrestal gọi Tổng Thống Kennedy đang nghỉ cuối tuần tại Hyannis Port , Massachusetts và đọc cho nghe. Tổng Thống Kennedy hỏi lại: "Có thể chờ cho đến thứ Hai để có đủ người họp được không?". Ông Harriman và Hilsman trả lời là "phải cần gởi gấp ngay bây giờ". Nghe thế, Tổng Thống Kennedy đồng ý và bảo "hãy gởi đi". Ông Hilsman cũng gọi báo cho Ngoại Trưởng Rusk và cũng được đồng ý cho phép gởi đi. Ông Hilsman gởi ngay điện văn này qua Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, và được coi như Mỹ "bật đèn xanh" đảo chánh.
Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Giám Đốc CIA McCone chưa được đọc bức điện văn trước khi gởi đi nên rất bất mãn. Đại Sứ Lodge nhận được điện văn và gởi ngay cho ông Xếp CIA William Colby, lúc đó đang làm Giám Đốc CIA Vùng Viễn Đông (Chief of the CIA's Far East Division) trụ sở tại Langley Virginia. Ông Xếp CIA Colby có quyền đọc tất cả điện văn tại trung tâm chỉ huy CIA ở Virginia .

Ngày 25 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge báo cáo Bộ Ngoại Giao là ông đã nhận được bức điện văn, nhưng nói "căn bản quyết định vẫn là từ Hoa Thịnh Đốn".


Tướng Mỹ Maxwell Taylor và Tồng Thống Ngô Đình Diệm


Ngày 26 tháng 08 năm 1963, sáng thứ Hai, các cố vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm hai phe: Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Maxwell Taylor phàn nàn Bộ Ngoại Giao quyết định làm bức điện văn ngày 24 tháng 08 mà không hội ý các nhân vật cao cấp, tạo nên sự nghi ngờ về mức độ thành công của việc đảo chánh. Bộ Trưởng Quốc Phòng và Giám Đốc CIA cùng quan điểm. Giám Đốc CIA McCone cho rằng: "Tổng Thống Diệm là người lãnh tụ xứng đáng nhất tại Việt Nam, và CIA cũng khó mà thực hiện được tinh thần bức điện văn ngày 24 tháng 08 năm 1963". Tổng Thống Kennedy khiển trách ông Phụ Tá Forrestel đã không chịu giữ lại bức điện văn cho tới thứ Hai. Ông Forrestal xin từ chức nhưng Tổng Thống Kennedy muốn giữ ông ta lại. Bộ Quốc Phòng bất đồng với Bộ Ngoại Giao nên muốn có thêm một cơ hội nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu.

8 giờ sáng, đài VOA lên tiếng chỉ trích cảnh sát của ông Nhu tấn công chùa chiền, và minh xác là quân đội không có nhúng tay. Đài VOA cũng tuyên bố Mỹ cắt viện trợ chính phủ Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge gọi Ngoại Trưởng Rusk phàn nàn về việc đài VOA đi thông báo việc cắt viện trợ, vì 11 giờ sáng này Đại Sứ Lodge sẽ gặp trình Ủy Nhiệm Thư cho Tổng Thống Diệm. Ông Ngoại Trưởng Rush gởi điện văn qua xin lỗi ông Lodge, và đài VOA đính chính không cắt viện trợ. Trong dịp này, Đại Sứ Lodge yêu cầu Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu ra khỏi chức cố vấn, nhưng quá trễ vì lúc này ông Nhu đã trở thành tai, mắt và là bàn tay sắt của Tổng Thống Diệm.

Cũng trong ngày này, ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Trần Thiện Khiêm tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Khiêm khuyên ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Dương Văn Minh tức "Big" Minh. Tướng Minh đang là cố vấn quân sự cho Tổng Thống Diệm, và càng tréo cẳng ngổng nữa là ông ta cũng lại là Chủ Tịch Ủy Ban Đảo Chánh. Trong khi đó thì ông CIA AlSpera bay lên vùng cao nguyên để gặp tướng Nguyễn Khánh. Tướng Khánh không nêu danh tánh các tướng tham dự đảo chánh, nhưng khi nghe nhắc đến tên tướng Khiêm thì tướng Khánh nói "chúng tôi thích vậy".

Ông Robert McNamara, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng và Đại Tướng Maxwell Taylor, Chủ Tịch Ủy-Ban Tham-Mưu liên quân Hoa Kỳ, đã đến Sài Gòn ngày 24 tháng 9 năm 1963 để hội kiến với ôngHenry Cabot Lodge, Đại sứ Hoa Kỳ bên cạnh chính phủ Việt-Nam Cộng-Hoà. Chuyến công du của hai Ông McNamara (trái) và Tướng Taylor (giữa) sang Việt Nam có mục đích tìm hiểu tình hình tại chỗ liên quan đến những xáo trộn xảy ra trong thời gian qua

.
Thứ Ba ngày 27 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy họp các cố vấn cao cấp lại. Có cựu Đại Sứ Nolting tham dự. Ông Nolting không tin tưởng cuộc đảo chánh thành công vì ông cho rằng các tướng đảo chánh không can đảm như anh em ông Diệm-Nhu, họ không thống nhất mà lại chia rẽ, họ không có lãnh đạo thật sự và họ không có thực lực quân đội trong tay. Tổng Thống Kennedy hỏi lại ông Nolting: "Tại sao Tổng Thống Diệm không giữ lời hứa với chúng ta? Tại sao chính quyền Tổng Thống Diệm dùng sức mạnh đàn áp Phật Giáo? Bà Nhu hiện đang nắm chức quyền gì?". Ông Nolting cố bào chữa cho Tổng Thống Diệm và đề nghị chính phủ Mỹ nên cho thêm một cơ hội nữa để đòi Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu và truất quyền bà Nhu. Ông Nolting nói với Tổng Thống Kennedy rằng: "Ông Diệm và ông Nhu cũng giống như cặp song sinh Siamese dính nhau nên không thể tách ra được". Ông Nolting cũng nhắc cho Tổng Thống Kennedy biết về việc 3 năm trước đây, ông Đại Sứ Mỹ Durbrow cũng đòi Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu nhưng thất bại nên đã trở về Mỹ. Tổng Thống Kennedy mỉm cười và nói rằng: "Nếu ông nói đúng, thì chuyến đi của Đại Sứ Lodge kỳ này sẽ là chuyến đi ngắn nhất trong lịch sử". Cuối cùng Tổng Thống Kennedy vẫn giữ lập trường ủng hộ bức điện văn ngày 24 tháng 08.

Tại Sài Gòn tất cả trường học đóng cửa, ra lệnh bắt đối lập, tin tức đảo chánh loan truyền. Các tướng đảo chánh âm thầm di chuyển các đơn vị Dù vào Sài Gòn. Có 2 đơn vị Dù khác có thể tiến vào thủ đô trong vòng 8 tiếng đồng hồ. Chính quyền Diệm-Nhu ra lệnh bố trí chống đảo chánh.

Người tín cẩn nhất của chính quyền Diệm-Nhu là Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Thủ Đô Sài Gòn. Trong tay có 2,500 lính Dù, 1,500 lính Thủy Quân Lục Chiến, 700 Quân Cảnh. Ngoài ra Tướng Đính có liên hệ với Sư Đoàn 5 Bộ Binh.

Chính quyền Diệm-Nhu có Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy 1,700 lính Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, 900 lính Lực Lượng Đặc Biệt và 700 Cảnh Sát Dã Chiến.

Ngày 08 tháng 08 năm 1963, ông CIA Conein gặp lại các tướng đảo chánh lần thứ nhì, gồm các Tướng: Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim và Đại Tá Nguyễn văn Thiệu. Các tướng muốn Mỹ chính thức ủng hộ cuộc đảo chánh bằng sự lên tiếng của Đại Sứ Lodge.

Ông Trưởng Phòng CIA John Richardson khuyến cáo rằng tình hình không thể thối lui. Sài Gòn bây giờ đã biến thành một trại lính. Đây là trận đánh cuối cùng của gia đình Tổng Thống Diệm. Ông tiên đoán rằng các tướng đảo chánh sẽ thắng, tuy nhiên phải thuyết phục cho được Tướng Tôn Thất Đính và Đại Tá Lê Quang Tung gia nhập đảo chính. Đảo chánh sẽ chết nhiều sinh mạng. Ông Đại Sứ Lodge ủng hộ đảo chánh và nói rằng "nếu trễ sẽ bị thất bại". Trái với ý kiến của ông Trưởng Phòng CIA Richardson và Đại Sứ Lodge, Tướng Paul D. Harkins, Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam nghi ngờ khả năng các tướng đảo chánh. Ông khuyên Mỹ nên đứng ngoài cuộc đảo chánh.

Tại Hoa Thịnh Đốn, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia họp ủng hộ đảo chánh. Cựu Đại Sứ Nolting phản đối nói rằng: "Nếu Mỹ bỏ rơi hai ông Diệm-Nhu tức là Mỹ đã nuốt lời cam kết trong quá khứ". Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman chống lại ý kiến ông Nolting, và chỉ trích ông Nolting đã không phục vụ quyền lợi nước Mỹ trong thời gian ông làm đại sứ tại Việt Nam . Tổng Thống Kennedy phân vân, nhưng cuối cùng đồng ý ủng hộ cuộc đảo chánh, tuy nhiên ông muốn trao quyền quyết định cho Đại Sứ Lodge. Tổng Thống Kennedy nói với ông Lodge: "Tôi tin là ông sẽ không ngại ngùng khi đưa ra quyết định đình hoãn hay thay đổi kế hoạch đảo chánh nếu ông nghĩ là cần thiết".


Các tướng Kim, Đỉnh, Đôn, Vy và Xuân tại nhà nghỉ Đà Lạt năm 1964


Bây giờ, Ngoại Trưởng Rusk tự tay gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge, chỉ thị mọi cách phải loại bỏ cho được ông bà Nhu ra khỏi chính quyền. Khoan cắt đứt viện trợ mà hãy chờ cho đến khi nào các tướng sẵn sàng đảo chánh. Sợ rằng nếu Tổng Thống Diệm biết được thì Tổng Thống Diệm sẽ kêu gọi Bắc Việt ủng hộ để đánh đuổi Mỹ.
Ngày 29 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge: "Tôi chấp thuận tất cả những điều đề cập trong cái điện văn mà những vị khác gởi cho ông (tức bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 8), và tôi ủng hộ các điều đó hết mình. Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức để có thể giúp ông hoàn thành sứ mạng này một cách mỹ mãn. Cho đến khi các tướng lãnh ra tay, tôi xin được dành cái quyền thay đổi kế hoạch hay đảo ngược chỉ thị vào giờ chót. Tôi hoàn toàn nhận hết trách nhiệm về bất cứ sự thay đổi nào, và tôi cũng chịu hoàn toàn trách nhiệm về kế hoạch này và hậu quả của nó".

Tại Sài Gòn, Chánh Phòng CIA Richardson và ông CIA Conein nhận điện văn của tướng Cố Vấn Quân Sự Tổng Thống Taylor từ Hoa Thịnh Đốn, đòi phải "suy nghĩ lại" việc ủng hộ đảo chánh. Vì 10 giờ sáng phải gặp lại Tướng Minh, do đó ông Chánh Phòng CIA Richardson ra lệnh cho ông CIA Conein không được tuyên bố gì mà chỉ đến nghe và về trình lại ý kiến của Tướng Minh thôi.

Tướng Minh đòi hỏi Mỹ phải chứng tỏ việc ủng hộ các tướng lãnh đảo chánh, bằng cách tuyên bố Mỹ cắt viện trợ kinh tế cho chính phủ Diệm. Đại Sứ Lodge điện về Ngoại Trưởng Rusk nói là quá trễ để mà suy nghĩ lại, ông nói: "Chúng ta đã bước sâu quá rồi nên không thối lui được, hãy dồn mọi nỗ lực ủng hộ các tướng đảo chánh ngay". Đại Sứ Lodge xin phép để Tướng Harkins tiếp xúc với các tướng đảo chánh và cũng yêu cầu Mỹ cắt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm để các tướng đảo chánh tin tưởng có Mỹ ủng hộ. Cùng ngày, Tòa Bạch Ốc cho phép Tướng Harkins tiếp xúc các tướng đảo chánh và cho phép Đại Sứ Lodge cắt đứt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm.

Tổng Thống Kennedy gởi thư riêng cho Đại Sứ Lodge nói rằng Tổng Thống Kennedy ủng hộ các kế hoạch đảo chánh của ông Lodge. Tuy nhiên Tổng Thống Kennedy không đồng ý với ông Lodge về việc ông Lodge nói là "không thể thối lui được". Tổng Thống Kennedy nhắc Đại Sứ Lodge về kinh nghiệm đau thương tại Vịnh Con Heo ở Cu Ba. Tổng Thống Kennedy nói: "Kinh nghiệm dạy tôi rằng sự thất bại mang lại cái tệ hại nhiều hơn là việc đi thay đổi quyết định...Khi chúng ta làm, chúng ta phải thắng, nhưng nếu cần phải thay đổi quyết định thì cũng phải nên thay đổi, hơn là để thất bại".

Thứ Sáu, ngày 30 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lo có cảnh tắm máu tại Sài Gòn. Ông đưa ra kế hoạch dự trù di tản gần 5,000 cư dân Mỹ tại Việt Nam . Một tàu chiến chở trực thăng, tàu tấn công, tàu destroyer nằm sẵn tại ven biển Việt Nam . Tại Okinawa, có 3,000 Thủy Quân Lục Chiến ứng trực 100%. Tại Bộ Ngoại Giao, Phụ tá Ngoại Trưởng Hilsman báo cáo lên Ngoại Trưởng Rusk rằng có thể trận đánh đảo chánh kéo dài quá lâu, và nếu vậy thì quân đội Hoa Kỳ phải nhảy vô vòng chiến để ủng hộ phe đảo chánh cho thành công.

Ngày 31 tháng 08 năm 1963, Tướng Minh thông báo cho Tướng Harkins biết là kế hoạch đảo chánh phải "trì hoãn". Các tướng đảo chánh sợ sự thân thiết giữa Chánh Phòng CIA Richardson với Tổng Thống Diệm sẽ làm bại lộ kế hoạch đảo chánh. Tướng Harkins mời Tướng Minh đến cơ quan MACV, và hứa là Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh. Tướng Khiêm thông báo cho Tướng Minh biết ý kiến của Mỹ.

Ngày hôm sau, Tướng Khiêm lại gặp Tướng Harkins. Tướng Minh lo hoạch định kế hoạch đảo chánh. Tướng Khiêm thì cho biết là các tướng không có đủ sức thắng lực lượng trung thành Tổng Thống Diệm. Lực lượng lính Bộ Binh sẽ không tham dự đảo chánh nếu không đánh tới cùng. Tướng Harkins và ông Chánh Phòng CIA Richardson báo cáo thẳng về Hoa Thịnh Đốn nói là kế hoạch đảo chánh bất thành. Đại Sứ Lodge than: "Không có ai, không có tổ chức nào trong đám tướng lãnh này làm nên trò trống gì cả". Tin tức các tướng bỏ cuộc đảo chánh khiến cho Tổng Thống Kennedy và các cố vấn tại Tòa Bạch Ốc hoang mang.

Đầu tháng 9 năm 1963, Tổng Thống Kennedy chỉ định Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara qua Việt Nam . Tháp tùng có một số cố vấn cao cấp trong đó có Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng William Bundy. Tại Việt Nam có 800 học sinh bị bắt nhốt.

Ngày 02 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy trả lời câu phỏng vấn của Walter Cronkite trên đài CBS rằng Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ miền Nam Việt Nam, nhưng ông nói tiếp: "Tôi không nghĩ là có thể thắng chiến tranh được trừ khi họ được nhân dân ủng hộ. Và theo ý tôi, trong 2 tháng qua chính phủ Diệm đã quá xa rời quần chúng".

Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman suy diễn lời chỉ trích trực tiếp và công khai này của Tổng Thống Kennedy rằng sẽ có một cuộc đảo chánh, nhưng không biết bao giờ xảy ra. Dù vậy, các tướng đảo chánh vẫn án binh bất động. Cùng ngày, phe ông Nhu viết bài trên báo Times of Viet Nam lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh.

Ông Xếp CIA Colby nói: "Ý họ muốn khuyên chúng ta nên đứng ngoài". Bà Nhu viết bài chửi Mỹ. Bà xưng bà là người cứu tinh cho miền Nam Việt Nam, và bà còn tố cáo Mỹ và Cộng Sản giật dây Phật Giáo biểu tình làm loạn. Bà tố cáo Đại Sứ Lodge mưu sát bà. Để trả thù, em bà Nhu là ông Trần Văn Khiêm lập một danh sách ám sát lại người Mỹ. Trong cuộc phỏng vấn với ký giả Úc Denis Warner, ông Khiêm tiết lộ các người Mỹ nằm trong danh sách bị ám sát đó có tên ông Chánh Phòng CIA Sài Gòn Richardson, ông CIA Conein và Phát Ngôn Viên Tòa Đại Sứ John Mecklin. Tình cảm giữa Việt Nam và Hoa Kỳ căng thẳng và tồi tệ trầm trọng.

Trong thời điểm này, Hoa Thịnh Đốn bất mãn việc Pháp đứng làm trung gian giải quyết chiến tranh Việt Nam . Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh và Tổng Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli, thành viên Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này được thiết lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli qua lại Sài Gòn - Hà Nội nhiều lần để tìm giải pháp thương thảo. Vào tháng 07 năm 1963, Bắc Việt đồng ý căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng Thống Diệm để miền Nam trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân.

10 giờ 30 sáng ngày 6 tháng 9 năm 1963, tại buổi họp trong Tòa Bạch Ốc, Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, tức bào đệ của Tổng Tống John Kennedy nêu ra các câu hỏi: "Liệu có thắng hai ông Diệm-Nhu? Liệu ông Nhu có bị ông Diệm loại bỏ? Phải xử sự ra sao nếu không thể thắng ông Diệm được?". Cuối cùng ông Robert Kennedy đề nghị phải cứng rắn với Tổng Thống Diệm và cắt đứt viện trợ. Bộ Trưởng Quốc Phòng trả lời là không có cái tin tức nào chính xác cả. Tướng Taylor đề nghị cử Tướng Victor Krulak đi Việt Nam . Bộ Ngoại Giao cử ông Joseph A. Mendenhall tháp tùng.

6 giờ sáng ngày 08 tháng 09 năm 1963, hai viên chức này đến Việt Nam . Tướng Krulak phỏng vấn 80 cố vấn Mỹ luôn cả các viên chức cao cấp. Nhà Ngoại Giao Mendenhall lại dành thì giờ đi Sài Gòn, Huế, Đà Nẳng để thăm viếng một số bạn bè cũ.

Ngày 09 tháng 09 năm 1963, hai vị này trở về Hoa Thịnh Đốn phúc trình lại cho Tổng Thống Kennedy. Tướng Krulak báo cáo là "tinh thần chiến đấu cao và tốt. Việc xáo trộn chính trị không ảnh hưởng gì đến việc đánh giặc. Dân chúng ghét ông Nhu thôi chứ không ghét Tổng Thống Diệm". Trái lại, nhà ngoại giao Mendenhall thì báo cáo là "chính phủ Diệm bị dân chúng chán ghét, chế độ sắp sụp đổ, và không thể chiến thắng Cộng Sản được nếu còn Diệm-Nhu". Nghe xong hai báo cáo, Tổng Thống Kennedy ngơ ngẫn vì hai báo cáo hoàn toàn trái ngược nhau, khiến T.T. Kennedy phải hỏi: "Có phải là hai vị đã đến cùng một quốc gia không vậy?" Tuy vậy, Tổng Thống Kennedy ra lệnh cho các cố vấn nghiên cứu việc cắt viện trợ kinh tế Việt Nam.

Ngày 11 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lại nói chưa thể cắt viện trợ chính phủ Diệm. Không được đảo chánh. Tổng Thống Kennedy muốn thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu khỏi chính quyền.

Ngày 17 tháng 09 năm 1963, Hội Đồng An Ninh chỉ thị Đại Sứ Lodge hòa hoãn với Tổng Thống Diệm, nhưng bằng mọi cách thuyết phục Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu. Đại sứ Lodge rất bất mãn vì lệnh này, ông muốn đảo chánh Diệm và cắt đứt viện trợ. Đại Sứ Lodge liên lạc với Tướng Minh bàn việc đảo chánh. Hội Đồng An Ninh muốn tìm một giải pháp khác. Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Taylor qua Việt Nam để nhìn tận mắt tình hình Phật Giáo, và nếu cần thì phải áp lực Tổng Thống Diệm. Tháp tùng trong chuyến đi có ông Xếp CIA Colby, đại diện Tòa Bạch Ốc Forrestal, đại diện Bộ Ngoại Giao William Sullivan và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng P. Bundy.

Trước khi trở lại Hoa Thịnh Đốn, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Tướng Taylor và Tướng Harkins ghé thăm Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm hút thuốc liên miên và chỉ tay vào bản đồ để khoe thành tích tiến triển tốt đẹp. Ông McNamara nhắc Tổng Thống Diệm về các xáo trộn chính trị và tình hình nguy ngập. Tổng Thống Diệm không đồng ý và bào chữa rằng đó là do báo chí xuyên tạc làm người Mỹ hiểu lầm. Tổng Thống Diệm phàn nàn các học sinh nông nổi, thiếu giáo dục và không hiểu trách nhiệm nên gây rối trật tự, do đó không có giải pháp nào hơn là tống giam họ. Tổng Thống Diệm thú nhận đã để xáo trộn là vì ông "quá nhẹ tay và đối xử quá tốt với Phật Giáo".

Tổng Thống Diệm lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh. Vì trước khi đi, Tổng Thống Kennedy đã ra lệnh các nhân viên đừng có ý kiến gì về vấn đề này nên mọi người đều nín thinh. Bộ Trưởng McNamara hỏi tại sao chính phủ không cải chính những lời tuyên bố "ồn ào" của bà Nhu, và nhắc đến việc bà Chiang Kai-shek lạm quyền nên đẩy nước Tàu vào tay Cộng Sản. Tổng Thống Diệm biện minh rằng "bà Nhu là một dân biểu, nên bà có quyền phát biểu theo ý của bà. Người Mỹ phải thông cảm cho bà vì bà bị báo chí truyền thông tấn công và xuyên tạc bà với đầy ác ý". Phái đoàn không lấy làm thỏa mãn về thái độ của Tổng Thống Diệm.

Ngày 02 tháng 10 năm 1963, phái đoàn trở về Hoa Thịnh Đốn báo cáo tình hình với Tổng Thống Kennedy: "Về lãnh vực quân sự tốt, nhưng sự tai tiếng chính trị của hai ông Diệm-Nhu sẽ làm xấu đi". Thảo kế hoạch cắt viện trợ chương trình Commodity Import Program, đó là chương trình viện trợ kinh tế giúp Việt Nam 40% số lượng nhập cảng của quốc gia, và sinh ra một số ngân quỹ lớn cho quân đội. Tổng Thống Kennedy tuyên bố giờ phút này các cố vấn trong chính phủ ông không còn có những ý kiến dị biệt nữa.


Từ trái: 1. Tướng Dương Văn Minh. 2.Tướng Lê Văn Kim, 3. ??? 4. Tướng Trần Văn Đôn.


Tướng Trần Văn Đôn gặp lại bạn cũ là ông CIA Conein tại Tân Sơn Nhất. Rồi lại hẹn gặp nhau lại tại Nha Trang, hai trăm dặm cách Sài Gòn. Phó Đại Sứ Trueheart ra lệnh ông CIA Conein không được tuyên bố gì cả, chỉ lấy tin tức mà thôi.

Tại Nha Trang, Tướng Đôn công bố đảo chánh. Điều đặc biệt và quan trọng trong buổi họp này là có sự tham dự của Tướng Tôn Thất Đính. Tướng Tôn Thất Đính khoe rằng ông là người cứu Tổng Thống Diệm thoát khỏi cuộc đảo chánh tháng 8, từng cứu Tổng Thống Diệm thoát khỏi các vụ đụng đầu với Phật Giáo, Cộng Sản v.v... Vì những công lao đó nên Tướng Đính xin Tổng Thống Diệm trả ơn bằng cách bổ nhiệm ông làm Bộ Trưởng Nội Vụ, nhưng bị Tổng Thống Diệm từ chối nên Tướng Đính sinh ra thù vặt và bất mãn Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn biết được tình cảnh ấm ức này nên đã tìm cách chiêu dụ Tướng Đính gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn đề nghị ông CIA Conein gặp riêng với Tướng Minh.

Ngày 05 tháng 10 năm 1963, ông CIA Conein gặp Tướng Minh tại Sài Gòn, nói chuyện bằng tiếng Pháp. Tướng Minh đưa ra các điểm:

- Phải biết lập trường của Mỹ có ủng hộ chính phủ mới tương lai không?
- Không đòi hỏi Mỹ ủng hộ đảo chánh, nhưng Mỹ đừng cản đường.
- Muốn Mỹ tái viện trợ kinh tế và quân sự cho chính phủ mới.

Tướng Minh đưa ra các kế hoạch giết ông Nhu và giết ông Ngô Đình Cẩn, bao vây Sài Gòn bằng lính, đánh thẳng vào phòng tuyến bảo vệ Phủ Tổng Thống. Ông CIA Conein không có ý kiến. Tướng Minh hẹn sẽ gặp lại.

Hoa Thịnh Đốn biết tin nên vừa háo hức mà vừa hồi hộp. Tổng Thống Kennedy nói với Đại Sứ Lodge rằng chính phủ Mỹ không muốn giật dây cuộc đảo chánh này, nhưng cũng không muốn bị hiểu lầm là cản trở đảo chánh hay từ chối viện trợ kinh tế và quân sự cho chính quyền mới. Điều quan tâm lớn nhất của Hoa Thịnh Đốn là rủi cuộc đảo chánh thất bại thì Mỹ sẽ bị cáo buộc là cấu kết với đám đảo chánh chủ mưu phản loạn. Tòa Bạch Ốc ra lệnh Đại Sứ Lodge phải cẩn thận và làm sao để mà "có thể chối được". Các báo cáo liên quan đến tình hình đảo chánh phải báo cáo riêng, không được báo cáo chung với bản báo cáo thường nhật của Tòa Đại Sứ. Phải báo cáo riêng và báo cáo về Hoa Thịnh Đốn phải dùng qua ngã CIA, chứ đừng qua ngã lỏng lẻo Bộ Ngoại Giao. Hơn nữa, chỉ có Đại Sứ Lodge mới được quyền chỉ thị CIA hành động và chỉ thị bằng khẩu lệnh mà thôi. Đại Sứ Lodge nói với ông CIA Conein: "Nếu có gì trục trặc, tôi sẽ chối tuốt luốt".

Biết Tướng Minh chống Tổng Thống Diệm, Mỹ tuyên bố cắt viện trợ Tổng Thống Diệm, hứa ủng hộ tân chính phủ. Muốn chứng tỏ Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh, Mỹ triệu hồi ông Trưởng Phòng CIA Richardson về Mỹ vì cho rằng ông này thân thiện với Tổng Thống Diệm.


Ngày 26 tháng 10 năm 1963, ngày Quốc Khánh kỷ niệm năm thứ tám, thành lập VNCH, TT Ngô Đình Diệm duyệt binh cùng Tướng Dương Văn Minh, cố vấn Tổng Thống Phủ, mấy ngày sau, Dương Văn Minh tạo phiến loạn 1-11-1963 sát hại toàn gia đình TT Ngô Đình Diệm.


Ngày 05 tháng 10 năm 1963, Ông Giám Đốc CIA tại Mỹ McCone phản đối kế hoạch giết ông Nhu và muốn đứng ngoài cuộc đảo chánh. Tuy nhiên vẫn muốn theo dõi kế hoạch đảo chánh. Ông CIA Conein gặp Tướng Minh nói là Mỹ chống ám sát, do đó Tướng Minh nói: "Nếu quý vị không thích thì chúng tôi sẽ không đề cập đến nó nữa". Tướng Minh muốn biết quan điểm của Mỹ nếu có cuộc đảo chánh "sắp tới đây". Ông CIA Conein liên lạc với Đại Sứ Lodge và trả lời "bảo đảm ủng hộ chính phủ tương lai". Từ lúc này, ông CIA Conein biết là nhân vật mà ông cần liên lạc thường xuyên chính là Tướng trẻ Trần Văn Đôn. Có những cuộc tiếp xúc thường xuyên giữa CIA và các tướng đảo chánh.

Ngày 17 tháng 10 năm 1963, Mỹ báo cho chính phủ Diệm biết là viện trợ Lực Lượng Đặc Biệt của ông Nhu chỉ được tiếp tục nếu được chỉ huy bởi quân đội. Tướng Đôn gặp Đại Sứ Lodge tại một buổi tiệc. Ông Lodge nói là không có nhận được dấu hiệu đảo chánh nào cả.

Ngày 24 tháng 10 năm 1963, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo kéo quân vể Sài Gòn đảo chánh hụt vì các tướng đảo chánh tại Sài Gòn thay đổi kế hoạch.

Ngày 25 tháng 10 năm 1963, ông CIA Conein hỏi Tướng Đôn bao giờ đảo chánh? Tướng Đôn trả lời là không biết và hỏi lại ông CIA Conein có được phép của chính phủ Mỹ để thảo luận về cuộc đảo chánh không? Conein trả lời là Đại Sứ Lodge ra lệnh. Sau đó Tướng Đôn được Đại Sứ Lodge xác nhận tại phi trường.

Ngày 27 tháng 10 năm 1963, Tổng Thống Diệm mời vợ chồng Đại Sứ Lodge lên Đà Lạt gặp mặt. Sau nhiều lần thuyết phục nhưng Tổng Thống Diệm không nghe, Đại Sứ Lodge nói với Tổng Thống Diệm: "Thưa Ngài, tất cả lời đề nghị rõ ràng của tôi đều bị Ngài từ chối hết. Theo Ngài nghĩ thì liệu Ngài có thể làm cái gì mà điều đó có thể đem lại cái nhìn thiện cảm nơi người Hoa Kỳ?". Mỗi lần nhắc câu hỏi giống vậy thì Tổng Thống Diệm lại đổi đề tài.


Hình chụp tại Đà Lạt ngày 28 tháng 10 năm 1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Sứ Lodge trước 4 ngày xảy ra đảo chánh.


Ngày 28 tháng 10 năm 1963, Tướng Đôn gặp ông CIA Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Đôn không cho biết chắc chắn ngày đảo chánh, nhưng nói là rất gần. Tướng Đôn nói sẽ thông báo cho Tòa Đại Sứ biết vài giờ trước khi bắt đầu đảo chánh. Tuy nhiên Tướng Đôn muốn Đại Sứ Lodge đừng đình chuyến bay Hoa Thịnh Đốn đã định vào ngày 31 tháng 10 năm 1963. Tướng Đôn cho biết nhiệm vụ Tướng Minh lo quân đội, Tướng Kim lo chính trị, và Tướng Đôn lo liên lạc với Mỹ. Hỏi về nhiệm vụ Tướng Tôn Thất Đính, Tướng Đôn nói Tướng Đính vì từng trung thành với Tổng Thống Diệm, nên do đó không dám giao trọng trách vì e ngại bị phản.

Ngày 29 tháng 10 năm 1963, Đại Sứ Lodge thông báo cho Hoa Thịnh Đốn sắp có đảo chánh. Nói rằng không thể trì hoãn được và không kịp thông báo cho Tổng Thống Diệm.

Ngày 30 tháng 10 năm 1963, Mc George Bundy gởi điện văn nói là Tổng Thống Kennedy vẫn còn ý muốn đảo chánh. Tổng Thống Kennedy chỉ thị Đại Sứ Lodge "nên can thiệp nếu cảm thấy kế hoạch đảo chánh nguy hiểm, chúng ta ủng hộ nếu thấy diễn tiến đảo chánh tốt, nhưng nếu thấy tình hình không thuận tiện thì trì hoãn lại để khỏi làm ảnh hưởng đến chỗ đứng của Mỹ tại Đông Nam Á".

Bản điện văn thứ nhì của Tòa Bạch Ốc thì bày tỏ sự bất mãn và nói rằng "chúng ta không thể chấp nhận cái luận điệu cho rằng chúng ta không có đủ tư cách để trì hoãn hay ngăn cản cuộc đảo chánh".

Đại Sứ Lodge nghĩ là chính phủ Mỹ muốn ngăn cản đảo chánh, do đó ông gởi một điện văn về Hoa Thịnh Đốn: "Đừng có nghĩ là chúng ta có quyền trì hoãn hay ngăn cản đảo chánh. Không thể thông báo cho Tổng Thống Diệm được vì làm như vậy là chúng ta phản bội các tướng lãnh đảo chánh".

Trái lại, đối với ông Xếp CIA Colby thì nhận định lại khác: "Bây giờ đảo chánh thì nói là do người Việt Nam làm, nhưng theo tôi nghĩ thì trên thực tế quyết định này đã được Tòa Bạch Ốc quyết định từ vài tuần trước, lúc mà trong cuộc họp báo công khai tuyên bố là cần có một bộ mặt mới trong chính phủ Việt Nam, ám chỉ muốn thay đổi hai anh em Diệm-Nhu. Chúng ta cắt ngân khoản CIA viện trợ Lực Lượng Đặc Biệt của ông Nhu, điều đó có nghĩa là khi chúng ta không đồng ý với họ chỗ nào thì chúng ta cắt chỗ đó. Mỹ đã bật đèn xanh để các tướng đảo chánh ra tay".

Tư Lệnh Mỹ tại Việt Nam , Tướng Harkins không tin tưởng Đại Sứ Lodge và cũng không tin tưởng các tướng lãnh đảo chánh. Ông nói: "Tướng Đôn nói dối, ông ta nói với ông CIA Conein là có đảo chánh trước ngày 02 tháng 11, nhưng lại nói với tôi là không có đảo chánh".

Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1/03/1901 - 11/02/1963)


Tướng Harkins ra lệnh Thủy Quân Lục Chiến lên bờ Việt Nam . Tướng Harkins gởi điện văn cho Tướng Taylor ở Mỹ bày tỏ sự chống đối âm mưu đảo chánh Tổng Thống Diệm. Ông nói: "Chúng ta ủng hộ T.T. Diệm trong suốt 8 năm khó khăn. Thật sai lầm nếu hạ ông xuống, đá ông lăn lóc và đi truất phế ông ta". Chống lại ý kiến ủng hộ đảo chánh của Đại Sứ Lodge, Tướng Harkins gởi điện văn cho ông Lodge: "Chúng ta phải cần thu thập thêm tin tức. Mặc dù Tướng Đôn tuyên bố là đảo chánh là do chính người Việt Nam thực hiện. Tuy nhiên trong ngày gần đây rồi Mỹ cũng phải nhào vô dù có muốn hay không. Chúng ta cần phải tiếp tục ủng hộ Tổng Thống Diệm cho đến khi nào chịu đựng hết nổi".

Ngày 31 tháng 10 năm 1963, Hoa Thịnh Đốn gởi cho Đại Sứ Lodge một điện văn được coi là điện văn cuối cùng. Nội dung là chính phủ Mỹ ra lệnh: "Không được đứng về phe nào. Nếu tình thế xảy ra không rõ ràng, thì Mỹ phải đứng hòa hoàn giữa hai bên. Nếu đảo chánh bị thất bại, tòa đại sứ nên cho phép họ tỵ nạn tùy theo sự quyết định của Đại Sứ Lodge. Nhưng cố gắng khuyến khích họ nên đi nơi khác tỵ nạn. Dù vậy, nếu có cuộc đảo chánh xảy ra thì Mỹ vẫn mong là nó thành công". Đại Sứ Lodge đình chuyến bay trong ngày này.

Ngày 01 thá ng 11 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn đến Bộ Tổng Tham Mưu lúc 7 giờ 30 sáng, 6 tiếng đồng hồ trước khi đảo chánh. Tướng Đôn chuẩn bị gặp Tướng Harkins và Đô Đốc Tư Lệnh Thái Bình Dương Harry D. Felt lúc 9 giờ 15 sáng. Đô Đốc Felt muốn gặp Tướng Đôn tại Bộ Tổng Tham Mưu nhưng Tướng Đôn lại muốn gặp nhau tại cơ quan MACV. Tướng Đôn nói chuyện bình thường. Ông nói nếu đảo chánh thành công thì sẽ thắng Cộng Sản. Trong khi nói chuyện, Đô Đốc Felt chỉ lên bản đồ hỏi rằng có 2 Tiểu Đoàn Dù chưa đồng ý gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn bảo đảm là các lực lượng này trên đường đến Tây Ninh, Tây Bắc của Sài Gòn, sẽ kéo về thủ đô và chủ động cuộc đảo chánh.

9 giờ 45 sáng, Đô Đốc Felt rời MACV để đến thăm Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn sợ Tổng Thống Diệm rời Sài Gòn nên nhờ Đô Đố Felt cầm chân Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge làm hẹn và muốn tham dự. Gặp mặt tại Dinh, Tổng Thống Diệm nói: "Mỗi lần Đại Sứ Mỹ đi Hoa Thịnh Đốn là có tin đồn đảo chánh. Tôi biết là đang có sửa soạn đảo chánh, nhưng tôi không biết ai chủ mưu vì họ giữ bí mật kỹ quá". Khi Đại Sứ Lodge sắp đi thì Tổng Thống Diệm kéo qua một bên và nói là ông sẳn sàng thực hiện những điều chính phủ Mỹ muốn ông ta làm. Nhưng đã quá trễ, lúc Đại Sứ Lodge và Đô Đốc Felt từ biệt thì lính đã bao vây thủ đô Sài Gòn.

11 giờ 45 sáng, Đô Đốc Feelt chào Tổng Thống Diệm trở lại CINCPAC, có Tướng Đôn và Tướng Harkins đi cùng. Đô Đốc Felt họp báo tại phi trường Tân Sơn Nhất. Sau khi Đô Đốc Felt đi thì Tướng Đôn và Tướng Harkins ăn trưa với nhau.

Đại Sứ Lodge ngồi lại nói chuyện với Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống Diệm nói là Mỹ giật dây xúi Phật Giáo biểu tình và tung tin đảo chánh. Đại Sứ Lodge trả lời: "Thưa Ngài, nếu một người Mỹ nào hứa hẹn một điều gì sai trái thì tôi sẽ tống cổ họ ra khỏi nước ngay". Bào chữa cho ông Cố Vấn Nhu, Tổng Thống Diệm khuyên ông Lodge nên gọi nói chuyện với ông Xếp CIA Colby và cựu Đại Sứ Nolting để họ giải thích cho ông Lodge biết lý do tại sao Tổng Thống Diệm cần đến ông Nhu nhiều như vậy.

Trước khi Đại Sứ Lodge đứng ra về, Tổng Thống Diệm nói: "Xin ông vui lòng nói với Tổng Thống Kennedy rằng tôi là đồng minh tốt và thẳng thắn, tôi muốn là chúng ta nên thẳng thắn cùng giải quyết những vấn đề bây giờ hơn là nói về nó sau khi chúng ta đã mất tất cả".


CIA Lucien E. Conein


Khi Đại Sứ Lodge tiếp chuyện với Tổng Thống Diệm thì có một vị tướng đến nhà ông CIA Conein báo tin giờ đảo chánh sắp bắt đầu. Vị tướng này bảo ông CIA Conein mang tất cả số tiền lên Bộ Tổng Tham Mưu. Ông CIA Conein ôm 3 triệu đồng Việt Nam tương đương với 42,000 mỹ kim ra đi. Ông mang theo khẩu súng lục và mấy trái lựu đạn và một cái máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với các viên chức CIA khác. Theo ông Conein thì số tiền này được rút từ quỹ của CIA để dùng mua thực phẩm cho lính đảo chánh và bồi thường các gia đình có lính chết vì đảo chánh. Trước khi đến Bộ Tổng Tham Mưu, ông CIA Conein bấm mật mã 9,9...9,9...9,9 để thông báo đến các nhân viên CIA biết đảo chánh bắt đầu. Tuy nhiên, theo tờ báo Times of Viet Nam phát hành ngày 02 tháng 09 năm 1963, trên trang nhất có tựa lớn "CIA Tài Trợ Đảo Chánh" (CIA Financing Planned Coup d'Etat). Trong bài báo này có nói đến việc cơ quan CIA của Mỹ chi từ 10 triệu tới 24 triệu để tài trợ cho cuộc đảo chánh chính phủ Tổng Thống Diệm. Số tiền này được ứng ra để trả lương và tưởng thưởng cho lính, cảnh sát, công chức. Và số tiền đó cũng được dùng để trả cho các tổ chức Phật Giáo, phong trào thanh niên đấu tranh, các cơ sở tuyên truyền và cho các trường hợp bất khả kháng. Tòa Đại Sứ Mỹ từ chối nguồn tin này. Khi hỏi Tổng Thống Diệm thì Tổng Thống Diệm nói: "Ông có nghĩ là tờ báo Times of Viet Nam lại đi in như vậy nếu đó không phải là sự thật?". Sau đó Tổng Thống Diệm có trưng dẫn một số bằng chứng để xác nhận điều đó là đúng.

Các tướng đảo chánh đã nối đường dây điện thoại từ Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh và Tòa Đại Sứ. Một đường dây điện thoại khác được bắt từ Bộ Tổng Tham Mưu đến tư thất của ông CIA Conein với mục đích để ông CIA Conein có thể liên lạc thường xuyên với 12 lính Biệt Kích "A" Team đang bảo vệ vợ con ông. Nếu đảo chánh bất thành, các người lính này sẽ tự động đưa vợ con ông ra khỏi nước. Ông CIA Conein đến Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh khoảng 12 giờ 15 - 12 giờ 30 trưa. Tướng Đôn vắng mặt vì tiển Đô Đốc Felt ra phi trường. Khi Tướng Minh nhìn thấy người Mỹ thì hất hàm hỏi: "Ông làm gì đây?". Ông CIA Conein trả lời là "Tôi được kêu tới đây". Tướng Minh dằn mặt: "Nếu đảo chánh thất bại thì ông phải đi cùng với chúng tôi".

Hầu hết các tướng lãnh trung thành với Tổng Thống Diệm hay theo đảo chánh đều đến Bộ Tổng Tham Mưu do Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Trần Thiện Khiêm khoản đãi. Sau khi mọi người an tọa, Tướng Minh đứng dậy và tuyên bố đảo chánh, vừa lúc đó Quân Cảnh tràn vào phòng với súng tiểu liên vây xung quanh. Tướng Minh kêu gọi các tướng ủng hộ đảo chánh. Họ được phép rời phòng Tổng Tham Mưu nhưng không được ra khỏi Bộ Chỉ Huy.

Những vị còn ngồi tại chỗ, trong đó có Đại Tá Lê Quang Tung phản đối đảo chánh bị tống giam ngay. Tướng Minh sai đem cái máy thâu băng vào phòng, trong băng ông thâu lời tuyên bố đảo chánh, lên án gia đình Tổng Thống Diệm độc tài và hứa là quân đội có khả năng cai trị nước hơn. Tướng Minh đòi các tướng hiện diện ký vào bản tuyên cáo và hỗ trợ quân đội đảo chánh. Ông phân phát cho các tướng những cuốn băng để phân phối đến các đài phát thanh. Nếu đảo chánh thất bại thì các tướng không thể chối được việc mình tình nguyện tham gia đảo chánh.

1 giờ 30 quân đội phát động đảo chánh. Thông thường là đảo chánh ban đêm, nhưng lần này đảo chánh ban ngày nên lính chính phủ Tổng Thống Diệm không chuẩn bị ứng phó kịp thời. Lính đảo chánh mang khăn quàng đỏ, dấu hiệu đảo chánh tại miền Nam Việt Nam . Hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến tiến vào Sài Gòn từ Biên Hòa. Một tiểu đoàn Dù, một tiểu đoàn Bộ Binh từ Vũng Tàu. Hai tiểu đoàn Dù từ Bình Dương. Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Quân Trường gần đó. Đụng độ yếu ớt, quân đảo chánh chiếm phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Chỉ Huy Hải Quân, Bộ Quốc Phòng. Khoảng 500 Thủy Quân Lục Chiến bao vây Tổng Nha Cảnh Sát vì nơi đó phe Tổng Thống Diệm chứa rất nhiều vũ khí. Lính đảo chánh chiếm Sở Bưu Điện Trung Ương và Phòng Điện Tín. Phe chính phủ Tổng Thống Diệm tử thủ tại Đài Phát Thanh Sài Gòn và các đài phát thanh khác.

3 giờ chiều, Tướng Đôn gọi cho Tòa Đại Sứ để hỏi có kế hoạch nào để đưa Tổng Thống Diệm và gia đình ra khỏi Việt Nam nếu họ đầu hàng, Đại Sứ Lodge nói chắc chắn có máy bay vì chính Đại Sứ Lodge đang có máy bay sẵn dự định để chở ông đi Mỹ, nhưng ông hoãn lại chuyến bay.

3 giờ 30 chiều, quân đảo chánh chiếm Đài Phát Thanh. Đụng độ nặng nề nhất là tại lô cốt Cộng Hòa của lực lượng Phòng Vệ Phủ Tổng Thống gần Dinh Gia Long. Chiến xa của phe trung thành Tổng Thống Diệm bắn hỏa tiễn vào các cao ốc làm bể kiếng khiến dân chúng hốt hoảng di tản.


Tổng Thống Ngô Đình Diệm


Khi nghe báo cáo là gặp sức kháng cự quá mạnh của phe Tổng Thống Diệm tại lô cốt Cộng Hòa, Tướng Khiêm gọi Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ tại Bộ Chỉ Huy Không Quân, Tướng Khiêm nói: "Kỳ, lính phòng vệ ông Diệm chống cự mạnh quá và thì giờ không còn nhiều nữa. Ngay bây giờ hay không còn dịp khác nữa, ông có sẵn sàng giúp đỡ không?" Kỳ trả lời: "Dĩ nhiên, ngay lập tức". Với tướng mạo màu mè, bộ râu kẽm, luôn choàng cái khăn cổ tím và mang bên mình cái súng lục cán mạ ngà voi, ông ra lệnh cho 2 phi công xuất trận. Khoảng 4 giờ chiều, hai chiếc máy bay T-28 xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn, một chiếc từng dội bom Dinh Độc Lập năm 1962. Bom thả trật mục tiêu, một quả bom thả rớt xướng hầm trống của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bên kia Dinh Gia Long. Dù là bị oanh kích, nhưng trận đánh vẫn tiếp diễn tới tối.

Khi nhận được báo cáo đầu tiên về việc có quân đội tiến về Dinh Gia Long một cách bất thường, ông Nhu tỏ ra không mấy quan ngại. Ông nghĩ đó chính là nằm trong kế hoạch đảo chánh giả của ông gồm 2 phần: nhận diện và tiêu diệt đám đối nghịch chế độ. Phần một ám hiệu là Bravo I, một cuộc đảo chánh giả. Với rất nhiều đơn vị lính trung thành với chế độ trú đóng xung quanh Sài Gòn, các lực lượng này sẽ tấn công một số mục tiêu đã được định sẵn trong thủ đô. Khi cuộc tấn công bắt đầu, Tổng Thống Diệm và ông Nhu sẽ thoát xuống Vũng Tàu, cách Sài Gòn 50 dặm về phía Đông-Nam. Sau nhiều ngày vô luật lệ và xáo trộn, chính phủ của phe phản loạn sẽ ra mặt. Lúc đó những lực lượng lính trung thành với chính phủ Diệm sẽ tiến vào Sài Gòn và tiêu diệt phản loạn trong phần "phản đảo chánh" với ám hiệu Bravo II. Theo kế hoạch này, ông Nhu tiên đoán là "chúng ta sẽ lừa bọn tay sai của Mỹ rúc hết vào một cái rọ trong thủ đô".

Nhưng thật rủi cho anh em Tổng Thống Diệm, ông Nhu vì quá tin nên giao kế hoạch làm đảo chánh giả cho Tướng Tôn Thất Đính thực hiện. Vào trưa 01 tháng 11 ông Nhu cố liên lạc với Tướng Đính nhưng không gặp, ông Nhu liên lạc với các tướng trung thành chế độ nhưng cũng không gặp được, lúc đó thì ông Nhu mới nhận thức ra là đảo chánh thật.

Khoảng sau 4 giờ chiều, Tổng Thống Diệm gọi Tướng Khiêm, người đã cứu Tổng Thống Diệm trong cuộc đảo chánh năm 1960. Thay vì nói chuyện với Tướng Khiêm, thì Tướng Đôn trả lời. Tổng Thống Diệm hỏi: "Các tướng đang làm cái gì vậy?". Tướng Đôn trả lời: "Thưa Ngài, thời điểm đã đến, quân đội phải đáp lại nguyện vọng của đồng bào". Tổng Thống Diệm quở trách Tướng Đôn ăn nói thiếu lễ độ. Sau đó Tổng Thống Diệm tuyên bố là ông muốn thực hiện những điều cải tổ như ý quân đội miền Nam Việt Nam đòi hỏi trong tháng 09 rồi. Tổng Thống Diệm mời Tướng Đôn và những tướng lãnh khác vào Dinh Gia Long để thảo luận. Vì nhớ lại cái kinh nghiệm chua cay của cuộc đảo chánh thất bại 1960 khi Tổng Thống Diệm dùng kế hoãn binh để đoàn quân trung thành với ông có đủ thì giờ về giải cứu, do đó Tướng Đôn từ chối lời mời.

4 giờ 30 chiều, Tổng Thống Diệm gọi điện thoại cho Đại Sứ Lodge hiện đang ở nhà. Theo lời Đại Sứ Lodge báo cáo cho Bộ Ngoại Giao sau này, thì cuộc đối thoại có nội dung như sau:

"Tổng Thống Diệm: Có một số đơn vị lính phản loạn và tôi muốn biết thái độ của chính phủ Mỹ ra sao?

Đại Sứ Lodge: Tôi hiện không có đủ chi tiết để trình với Ngài. Tôi có nghe tiếng súng nổ, nhưng tôi không biết nguyên do. Vả lại, bây giờ ở Hoa Thịnh Đốn là 4 giờ 30 sáng do đó chính phủ Mỹ chắc không thể có quan điểm gì.

Tổng Thống Diệm: Nhưng ông phải có vài ý kiến tổng quát chứ? Tôi là Tổng Thống. Tôi đã cố gắng thi hành những bổn phận của tôi. Bây giờ tôi muốn sử dụng cái bổn phận của tôi. Tôi tin là bổn phận trên tất cả.

Đại Sứ Lodge: Ngài lẽ dĩ nhiên đã làm những bổn phận của Ngài. Tôi cảm phục sự can đảm và công lao đóng góp lớn lao của Ngài vào quốc gia của Ngài. Không ai có thể tướt đi cái công ơn mà Ngài đã làm. Bây giờ tôi đang lo ngại cho sự an toàn tính mạng của Ngài. Tôi đã sắp xếp để đưa Ngài và em của Ngài ra nước ngoài để bảo toàn tính mạng nếu Ngài từ chức. Còn nếu như Ngài không đồng ý, thì tôi cũng đã sắp đặt để Ngài mang tước vị Quốc Trưởng và Ngài có thể ở lại đây an toàn.

Tổng Thống Diệm: Không, không, tôi không muốn vậy. Tôi muốn tái lập trật tự. Tôi phải tái lập trật tự.(cúp máy)

Tướng Đôn có kể lại là trong khi đang đảo chánh thì Tổng Thống Diệm gọi điện thoại nói chuyện với Tướng Đôn, Tướng Đôn nói với Tổng Thống Diệm: "Thưa Tổng Thống, tôi lấy làm tiếc về sự việc xãy ra, nhưng điều tôi muốn Tổng Thống bây giờ là hãy khôn ngoan và hiểu cho hoàn cảnh, và hiện có một chiếc máy bay đặc biệt sẵn sàng đưa Tổng Thống và gia đình ra khỏi nước nếu Tổng Thống đầu hàng vô điều kiện".

Cả chiều 01 tháng 11, nhiều tướng đảo chánh gọi vào Dinh kêu gọi Tổng Thống Diệm và ông Nhu đầu hàng.

4 giờ 30, Tướng Minh lên tiếng với ông Nhu rằng nếu ông Nhu và Tổng Thống Diệm không ra đầu hàng thì Dinh Tổng Thống sẽ bị pháo kích và dội bom. Phe đảo chánh mang Đại Tá Lê Quang Tung đến, ông ta là người chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt trung thành với Tổng Thống Diệm.

Họ kê súng vào đầu Đại Tá Tung bắt gọi. Đại Tá Tung báo cáo thẳng là phe đảo chánh bắt giam tất cả tướng lãnh và viên chức trung thành chính phủ, và Tướng Khiêm với Tướng Đính đã gia nhập phe đảo chánh rồi. Đại Tá Tung kêu gọi đầu hàng, nhưng ông Nhu không chịu.

Tối hôm đó, phe đảo chánh trói tay Đại Tá Tung và em của ông ta giữ chức Phó Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Họ bị giao cho cận vệ của Tướng Minh chở về Bộ Tổng Tham Mưu bắn chết và chôn vào 2 cái hố mới được đào.

5 giờ 15 chiều, Tướng Minh gọi Tổng Thống Diệm đầu hàng. Tổng Thống Diệm từ chối nói chuyện với Tướng Minh phản loạn và khinh bỉ cúp máy. Quá tức giận về thái độ của Tổng Thống Diệm làm bẽ mặt Tướng Minh trước binh sĩ, sau đó vài tiếng, Tướng Minh gọi lại vào Dinh, Tướng Minh dọa nếu anh em Tổng Thống Diệm không ra đầu hàng thì Dinh này sẽ trở thành "bình địa". Tổng Thống Diệm vẫn từ chối nói chuyện với vị tướng lãnh đạo cuộc đảo chánh này.

Để chứng tỏ lời đe dọa là thật, Tướng Minh ra lệnh tấn công vào Dinh. Lý do Tướng Minh chần chừ không tấn công là vì muốn giảm thiểu sự đổ máu của hai bên. Hơn nữa, Tướng Minh và các tướng đảo chánh không có ý định tấn công vào Dinh là vì nghĩ là khi thấy lực lượng quân đội đảo chánh hùng hậu như vậy thì tự động anh em Tổng Thống Diệm ra đầu hàng. Sự từ chối giải pháp đầu hàng của Tổng Thống Diệm đã làm Tướng Minh và các tướng ngạc nhiên, bực tức vô cùng.

Không tướng nào muốn tấn công vào Dinh Gia Long cả. Tổng Thống Diệm hiện vẫn còn là khuôn mặt đáng kính. Họ không muốn mang tiếng nhục khi tấn công trực tiếp vào Tổng Thống Diệm. Các tướng đảo chánh chọn Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu vì Đại Tá Thiệu là người Công Giáo. Họ muốn người Công Giáo diệt người Công Giáo. Đó là lối lý luận và tính toán của các tướng đảo chánh theo đạo Phật.

Khoảng hơn 3 giờ sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, Đại Tá Thiệu tấn công Dinh Gia Long bằng vũ khí hạng nặng .50 caliber, 75 mm và xe tăng, phá sập cổng Dinh, dù vậy Tổng Thống Diệm cũng không chịu đầu hàng.

Rạng sáng, phe đảo chánh tiến vào Dinh Gia Long với cảnh tượng đổ nát, ngổn ngang. Họ tìm kiếm Tổng Thống Diệm và ông Nhu, lúc đó mới phát giác là hai ông đã thoát thân từ lúc 8 giờ tối hôm qua, tức buổi tối 01 tháng 11.

Anh em Tổng Thống Diệm trốn khỏi Dinh Gia Long bằng đường hầm bí mật cổng sau và chạy lên núp trong một nhà của người thương gia Tàu tên là Mã Tuyên tại Chợ Lớn vào lúc 9 giờ tối ngày 01 thá ng 11. Trong nhà này trang bị đầy đủ hệ thống điện thoại tối tân để Tổng Thống Diệm và ông Nhu gọi cầu cứu. Hai ông muốn lên cao nguyên hoặc xuống biển để đích thân điều động cuộc "phản đảo chánh", nhưng khi gọi không được ai thì hai ông thất vọng não nề. Hai ông có ý xin tỵ nạn tại tòa Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia nhưng thất bại.

6 giờ sáng, Tổng Thống Diệm gọi Tướng Đính ra lệnh các tướng đảo chánh đầu hàng.

6 giờ 20 sáng, Tổng Thống Diệm vẫn lại từ chối nói chuyện với Tướng Minh, nhưng lại gọi Tướng Đôn và chịu đầu hàng trong "danh dự". Hai ông muốn được hộ tống ra phi trường an toàn để đi ra khỏi nước. Tướng Minh vì bị Tổng Thống Diệm làm nhục mấy lần trước mặt binh sĩ nên không chấp nhận cho anh em Tổng Thống Diệm đầu hàng cho đến khi nào "người Việt ngưng giết người Việt", có ý là tại Dinh Gia Long vẫn đang còn đánh nhau.

Ba mươi phút sau, Tổng Thống Diệm gọi lại Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh, Tổng Thống Diệm báo là ông đã ra lệnh lính Phòng Vệ Phủ Tổng Thống ngưng bắn và ông đồng ý đầu hàng vô điều kiện. Lần này các tướng đồng ý.

Trong khi thương thảo, các tướng đảo chánh yêu cầu ông CIA Conein thu xếp máy bay chở Tổng Thống Diệm và gia đình ra khỏi nước. Ông CIA Conein gọi cho Phó Trưởng Phòng CIA David Smith. Chờ độ 10 phút thì ông Smith trả lời là cần 24 tiếng đồng hồ mới thu xếp có máy bay. Chính phủ Mỹ muốn đưa Tổng Thống Diệm bay đến một quốc gia khác tỵ nạn, có lẽ là Âu Châu, vì tại đó ông khó về để phục thù. Chuyến bay được chỉ thị phải bay trực tiếp và không được ngừng lấy xăng, và chỉ ở Guam mới có loại máy bay đó mà thôi. Ông CIA Conein báo lại cho các tướng đảo chánh biết lời của ông Trưởng Phòng CIA Smith, Tướng Minh gắt gỏng nói: "Chúng tôi không thể giữ họ lâu nữa được".

Chấp thuận lời đầu hàng của anh em Tổng Thống Diệm, Tướng Minh ra lệnh cho một chiếc xe thiết giáp M 113 và 4 xe Jeep đi đón anh em Tổng Thống Diệm do Tướng Mai Hữu Xuân và Đại Tá Dương Ngọc Lắm cầm đầu. Sau khi cái xe rời Bộ Tổng Tham Mưu thì được báo là anh em Tổng Thống Diệm không có tại Dinh Gia Long. Tướng Minh ra lệnh lục soát khu vực Sài Gòn, và do chỉ điểm của mật báo viên, các tướng đảo chánh mới biết là anh em Tổng Thống Diệm đang ở nhà thờ tại Chợ Lớn. Đoàn xe được lệnh đổi lộ trình và tiến về Chợ Lớn.

8 giờ 30 sáng, Tổng Thống Diệm và ông Nhu cùng mặc bộ đồ vest màu xám bị bắt tại nhà thờ Don Thanh mà hay gọi là nhà thờ Cha Tam tại Chợ Lớn trong khi họ đang cầu nguyện vì là ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn của đạo Công Giáo.

Theo lời kể của một sĩ quan Việt Nam : "Tổng Thống Diệm thì chứng tỏ cái phong cách lịch sự, nhưng ông Nhu thì kèn cựa cho tới phút chót". Ông Nhu phản đối: "Các ông đem chiếc xe như vậy để mà chở Tổng Thống hả?". Hai tay bị trói ra đàng sau, hai ông bị đẩy vào trong chiếc xe thiết giáp M113. Trên đường về Bộ chỉ Huy, đoàn xe ngừng tại cổng xe lửa độ 5 phút. Theo hầu hết lời kể, thì chính cận vệ của Tướng Minh là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đã bắn và đâm anh em Diệm-Nhu.

Tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết chết trong xe thiết giáp.


Theo lời kể khác, thì Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tài xế xe thiết giáp cũng là người giết hai ông. Theo lời kể của Tướng Khánh, người điều tra cái chết của Tổng Thống Diệm sau cuộc chỉnh lý nói rằng: "Đại Úy Nhung đã giết anh em ông Diệm. Nó là tên giết người chuyên nghiệp. Nó đã giết 40 người, nó gạch một gạch trên dao găm mỗi lần nó giết một người". Đại Úy Nhung bị Tướng Khánh giam năm 1964 nhưng không sống lâu để khai ai ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm, và Đại Úy Nhung bị chết trong nhà tù bằng cách treo cổ.

Có nhiều mâu thuẫn giữa các tướng trong việc ai là người ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm. Theo lời thuật của Tướng Đôn trong quyển hồi ký của ông ta thì Tướng Minh ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn viết: "Tôi khẳng định là Tướng Minh và một mình ông ta quyết định thôi". Trái lại, các sĩ quan cho rằng nếu không phải tất cả, thì hầu hết các tướng đảo chánh đã cùng quyết định giết Tổng Thống Diệm. Theo lời khai của Thiếu Tá Nghĩa thì "số mạng của Tổng Thống Diệm được quyết định bởi đa số tướng lãnh trong Ủy Ban Cách Mạng".

Theo ông xếp CIA William Colby thì: "Thật quá rõ ràng chính Tướng Minh đã giết anh em Diệm-Nhu". Trái lại, theo lời của một viên chức cao cấp CIA khác, ông George Carver thì hoài nghi: "Tôi không nghĩ là Tướng Minh quyết định một mình, vì theo cái bản tính của ông, ông ta thích thảo luận và chia xẻ trách nhiệm khi làm một quyết định quan trọng vì ông ta sợ đổ thừa sau này".
Nhưng cũng theo người khác kể thì chính Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh giết.

Theo lời kể của ông CIA Conein thì khi ông ta rời Bộ Tổng Tham Mưu cũng cùng lúc với xe thiết giáp đi đón ông Diệm. Báo chí được mời tới Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh (tức Bộ Tổng Tham Mưu). Về đến nhà, ông CIA Conein nhận lệnh của ông Phó Trưởng Phòng CIA Smith đòi đi kiếm Tổng Thống Diệm.

CIA Lucien E. Conein chết ngày 3/6/1998


Khoảng 10 giờ 30 sáng, khi ông CIA Conein trở lại Bộ Chỉ Huy, thì các tướng nói là anh em Diệm-Nhu đã tự tử trong nhà thờ tại Chợ Lớn. Theo ông CIA Carver:"Cái việc cứng đầu tới giờ chót, tạo nên những cái chết vô ích cho đôi bên, và làm bẽ mặt Tướng Minh trước binh sĩ, tức anh em ông Diệm-Nhu đã ký vào một bản án tử hình". Tướng Minh bảo ông CIA Conein đến nhìn xác chết anh em ông Diệm-Nhu nhưng ông CIA Conein từ chối. Vì với con mắt nhà nghề tình báo, ông CIA Conein rất dễ nhận ra là bị giết hay tự tử, và điều biết đó sẽ rất là nguy hiểm.

Xác hai ông được mang tới bênh viện St.Paul tại Sài Gòn để làm giấy khai tử, và được chôn tại một nghĩa trang dân sự cách nhà Đại Sứ Lodge một block đường mà trên mộ không có bia tên gì cả. Trong tờ giấy chứng tử thì lại đề ông Diệm là Thượng Thư thời Pháp thuộc chứ không phải là Tổng Thống, và đề ông Nhu là Quản Thủ Thư Viện, một chức vụ cũ rồi.

Tại Hoa Thịnh Đốn thì các cố vấn cao cấp của Tổng Thống Kennedy theo dõi sát nút cuộc đảo chánh từ lúc 1 giờ 30 sáng ngày 01 tháng 11 khi được CRITIC báo cáo là có đảo chánh. Vì việc Đại Tá Thảo kéo quân về Sài Gòn đảo chánh hụt trước kia làm cho Hoa Kỳ hơi bi quan về việc đảo chánh. Sau khi nối trực tiếp đường dây với Tòa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam , Phụ tá Tổng Thống Forrestal nói chuyện với Phó Đại sứ Trueheart. Ông Trueheart báo cáo là "có ông CIA Conein túc trực bên bộ chỉ huy đảo chánh, và đây là cuộc đảo chánh thật. Bây giờ không còn các báo cáo hồi hộp nữa đâu". Nghe xong, ông Forrestal đánh thức Tổng Thống Kennedy và họ cùng xuống phòng Situation Room để theo dõi suốt cuộc đảo chánh.

Tướng Taylor có mặt với Tổng Thống Kennedy trong lúc đó đã ghi lại trong hồi ký như sau: "Khi nghe tin Tổng Thống Diệm bị giết, mặt mày Tổng Thống Kennedy tái méc và run lập cập. Ông bước vội ra khỏi phòng với cái trạng thái hốt hoảng chưa từng thấy. Trở lại phòng, Tổng Thống Kennedy nói với các phụ tá: "Tại sao họ phải làm vậy? Tổng Thống Diệm đã chiến đấu khổ nhọc trong 9 năm trời chống Cộng Sản, lẽ ra ông ta phải nhận được sự đền bù xứng đáng hơn là cái việc bị giết chớ ?!".

Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm


Ông xếp CIA Colby kể lại: "Tổng Thống Kennedy xúc động và buồn bã quá chừng. Ông ta cảm thấy như mình dự phần nào trách nhiệm về việc này". Tổng Thống Kennedy từng ủng hộ đảo chánh, rồi rút lui, rồi ủng hộ lại. Cố vấn đặc biệt của Tổng Thống Kennedy là ông Arthur Schlesinger nói: "Việc giết Tổng Thống Diệm và ông Nhu không nằm trong kế hoạch chúng tôi và chúng tôi cũng không mong điều đó. Vì nhiều lý do mà các tướng đảo chánh đã giết hai ông.

Cái chết của Tổng Thống Diệm làm Tổng Thống Kennedy buồn rầu bởi vì Tổng Thống Kennedy là con người đạo đức, ông ta không muốn người khác bị giết, hơn nữa người đó lại là vị nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, một phần khác nữa là Tổng Thống Kennedy sợ rằng cái chết của Tổng Thống Diệm sẽ lôi kéo thêm quân Mỹ vào Việt Nam ". Cũng theo Schlesinger thì vào thời điểm đó có 16 ngàn cố vấn Mỹ tại Việt Nam, và có 75 lính Mỹ chết.

Mặc dù Tổng Thống Kennedy mất bình tĩnh, nhưng các giới chức Mỹ thì bình thường. Quân đội và CIA thì luôn nhận thức rằng có đảo chánh là có đổ máu chết chóc. Tướng Taylor sau này nói rằng: "Thực hiện một cuộc đảo chánh không phải giống như một tiệc trà. Nó là một việc làm vô cùng nguy hiểm". Trước khi đảo chánh, Phó Đại Sứ Mỹ Trueheart có gởi một điện văn cho Bộ Ngoại Giao khuyến cáo rằng: "Thật nguy hiểm cho hai ông Diệm-Nhu có thể bị tử hình vì các tướng đảo chánh sợ rằng hai ông sẽ tìm cách trở về chiếm lại quyền". Còn ông Phụ Tá Ngoại Trưởng, Roger Hilsman, người đồng tác giả bức điện văn "tối mật" ngày 24 tháng 08 ủng hộ đảo chá nh, khi bị hỏi ông nghĩ gì khi bàn tay ông đang dính đầy máu, thì ông Hilsman dững dưng, tỏ vẻ chính phủ Mỹ không quan tâm lắm về cái chết của ông Diệm. Ông nói: "Cách mạng thì ghê gớm lắm. Người ta phải chịu trả giá chết chóc mà".

Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Theo lời của ông Thiện, Bí Thư Báo Chí của Tổng Thống Diệm nói là có phỏng vấn Tướng Kim, một tướng có thiện cảm với Tổng Thống Diệm trước kia nhưng nay tại sao theo phe đảo chánh, thì Tướng Kim trả lời: "Chính phủ Mỹ bảo chúng tôi chọn giữa Tổng Thống Diệm và viện trợ của Mỹ. Chúng tôi không còn chọn lựa nào khác hơn". Đang họp tại Pháp, vì quá mừng khi nghe được tin hai anh em Tổng Thống Diệm bị giết, ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Cộng Sản reo lên: "Đây là một món quà từ Trời cho chúng tôi”

Bào huynh Tổng Thống Diệm là Đức Giám Mục Ngô Đình Thục và Bà Nhu đang ở nước ngoài khi đảo chánh. Vài ngày sau đảo chánh, Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn sắp đặt cho 3 đứa con của ông bà Ngô Đình Nhu ra khỏi nước.

Ngày 02 tháng 11 quân đảo chánh vây nhà ông Ngô Đình Cẩn, ông Cẩn chạy đến trốn trong một nhà thờ Công Giáo tại Huế. Các Linh Mục đến Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế xin tỵ nạn cho ông Cẩn nhưng không được, vì theo luật quốc tế chỉ có Tòa Đại Sứ mới có quyền cho tỵ nạn mà thôi. Ông Lãnh Sự John Helble hỏi lệnh Tòa Đại Sứ và Bộ Ngoại Giao. Bộ Ngoại Giao chỉ thị Lãnh Sự Helble phải cho ông Cẩn tỵ nạn.

10 giờ 45 sáng, một mình ông Cẩn đến trú ẩn tại Tòa Lãnh Sự Huế. Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Sư Đoàn I đến Tòa Lãnh Sự yêu cầu đừng chứa chấp ông Cẩn vì e dân chúng tràn vào không giữ an ninh nổi. Cùng ngày, tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế yêu cầu tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn di chuyển gấp ông Cẩn.

Ông Lãnh Sự Helble kể :"Tôi được cho biết là sẽ đưa anh em ông Diệm-Nhu ra khỏi nước". Tháp tùng bởi một người sĩ quan Mỹ, ông Cẩn lên máy bay đi vào Sài Gòn. Hạ cánh Tân Sơn Nhứt, thay vì gặp một viên chức tòa Đại Sứ như đã hứa, nhưng ông CIA Conein đón bắt ngay ông Cẩn và giao cho quân đảo chánh giam giữ. Trên lúc chiếc máy bay chở ông Cẩn đang bay, thì Đại Sứ Lodge gọi về Hoa Thịnh Đốn báo tin là Tướng Đôn hứa sẽ cho ông Cẩn được xử án một cách phân minh và công bằng, bởi vậy ông quyết định giao ông Cẩn cho phe đảo chánh.

Ông CIA Conein kể là Đại Sứ Lodge dặn: "Tôi sắp xếp chuyến bay đặc biệt này và ông phải giải giao người trên phi cơ này cho quân đảo chánh". Vào mùa Xuân 1964, ông Cẩn bị ghép đủ thứ tội như: tội thủ tiêu, tổ chức ám sát, bắt người vô cớ, làm thiệt hại kinh tế quốc gia mặc dù có lời xin ân xá của Đại Sứ Lodge. Ông Cẩn bị xử bắn ngày 09 tháng 05 năm 1964, tức 1 năm 1 ngày sau ngày nổi dậy biểu tình của Phật Giáo Huế.

Phó Tổng Thống Mỹ Johnson hội kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm tháng 05 năm 1961.


Ngày 22 tháng 11 năm 1963. Tổng Thống Kennedy bị ám sát chết tại thành phố Dallas, Texas, Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson lên nhậm chức Tổng Thống Mỹ. Lúc còn là Phó Tổng Thống, ông Johnson từng qua hội kiến với Tổng Thống Diệm vào tháng 05 năm 1961 để bàn việc đưa quân Mỹ tham chiến Việt Nam. Vì cảm phục và nể trọng Tổng Thống Diệm, nên ông Johnson đã ca ngợi rằng: "Thủ Tường Diệm là một Churchill của Á Châu...Lịch sử xếp ông ta như là một trong những vĩ nhân của thế kỷ 20".
Sau cuộc đảo chánh 1963, đất nước liên tiếp trải qua bao cảnh chính biến và cuối cùng đưa cả một dân tộc vảo một thảm họa đen tối nhất lịch sử là để miền Nam Việt Nam rơi vào tay bọn Cộng Sản vô thần. Để rồi hôm nay đây, nơi đất khách quê người, chúng ta xót xa mang nỗi hờn vong quốc, và ngậm ngùi tiếc nhớ những kỷ niệm, dĩ vãng xa xưa!!!

Ngô Kỷ
ngokyusa@yahoo.com


Tham khảo và dịch thuật từ các sách sau đây:
- Lost Victory (William Colby)
- The Wound Within: America in the Vietnam Years, 1945-1974 (Alexader Kendrick)
- Kennedy in Vietnam : American Vietnam Policy 1960-63 (William J. Rust)
- Beyon Vietnam: The United States and Asia (Edwin O. Reischauer)
- Can We Win In Vietnam ? (FranK E. Armdruster, Raymond D. Gastil, Herman Kahn, William Pfaff, Edmund Stillman)
- The Perfect War: The War We Coudn't Lose and How We Did (James William Gibson)
- VIETNAM An American Ordeal (George Donelson Moss)
- The Ten Thousand Day War VIETNAM :1945-1975 (Michael Maclear)
- THE UNFINISHED WAR Vietnam and the American Conscience (Walter H. Capps)
- The Vietnamese and Their Revolution (John T. McAlister,Jr/Paul Mus)
- Why we were in Vietnam (Norman Podhoretz)
- America 's Longest War THE UNITED STATES AND VIETNAM 1950-1975 (George C. Herring)
- In Retrospect THE TRAGEDY AND LESSONS OF VIETNAM (Robert S. McNamara)
- THE VIETNAM WAR Opposing Viewpoints (David L. Bender)
- The "Uncensored War" THE MEDIA AND VIETNAM (Daniel C. Hallin)
- Vietnam Crisis (Stephen Pan,PH.D.,-Daniel Lyons,S.J.)