Thứ Năm, tháng 8 14, 2008

VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ BỨC TỬ ( LA MORT DU VIETNAM )

CHƯƠNG TÁM
Get this widget | Track details | eSnips Social DNA

NHỮNG HẬU QUẢ MÀ QUỐC GIA VÀ
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI GÁNH CHỊU

TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM
NGƯỜI TA KHÔNG BIẾT CƯỜI NỮA RỒI!


Tại Sài Gòn, sau cái ngày gọi là "được giải phóng" thì tất cả quyền Tự Do mà người ta thường quá lạm dụng, đùng một cái ngả lăn ra "chết" hết !

Miền Nam Việt Nam trở thành một trại giam vĩ đại mà khẩu phần ăn mỗi ngày chỉ được cho vừa đủ sống. Ở một đất nước mà người ta chỉ có biết cười, thì bây giờ dân chúng chỉ còn biết nghe theo lệnh "học tập", nụ cười đã biến mất từ đây! Trong lúc đó thì người ta bắt buộc người dân phải xem "cười" là một nhiệm vụ hàng đầu, và mỗi buổi sáng sớm tại các ngả tư đường phố hay trong những vườn công cộng, người dân được tập hợp lại, trước khi đi làm việc, để người ta dạy cho hát những bài hát cách mạng, để học lại những biểu ngữ hồi thế kỹ thứ 15 và những bài học vỡ lòng về kinh tế mác-xít. Và người ta luôn luôn nhấn mạnh:"trước tiên là phải "cười".

Người ta phải dạy cho dân chúng cười, vì họ không biết "cười" là cái gì ! và "cười" ra làm sao nữa ? Trước hết, sau ngày "được giải phóng", thì dân chúng mất hết tất cả những gì gọi là êm ấm của cuộc đời, bù lại họ được một sự nhớ nhung thương tiếc một đất nước mà nay đã không còn nữa. Hết rồi ! ở cái quốc gia Việt Nam nầy người ta hết biết cười nữa rồi !!!!!

Ôi Tự Do, Ôi Tự Do, Chỉ vì hai chử Tự Do nầy mà con người đã làm biết bao là tội ác giết người ! Dĩ nhiên tất cả chỉ còn là tự do vô kỷ luật, và mọi sự cố gắng cải thiện đều bất thành, dĩ nhiên luật pháp không còn được tôn trọng nữa, buông thả ham chơi đã thành tập quán rồi, đồng tiền đã đưa con người vào con đường tham nhũng, sức mạnh đạo đức của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nầy đã vì thế mà bị hủy diệt rồi !!

Theo lý luận cùn của những anh bộ đội Miền Bắc, thì họ rất là mản nguyện. Miền Nam tự do nầy bây giờ đã không còn một con "vi trùng tự do" nào còn sống sót được nữa, mảnh đất nầy đã được tẩy trùng sạch sẽ lắm rồi, không còn bất cứ một thứ Tự Do nào nữa. Người ta sẽ thử xây dựng một nước "Việt Nam Khác" trong sự cưỡng bách và khắc khổ.

Trong khi đó thì những người tự xưng là "cách mạng" lại muốn người dân Miền Nam Việt Nam coi họ là những người "giải phóng". Họ khẳng định là họ đã thực sự giải phóng đất nước mà họ vừa chiếm được bằng vũ lực chống lại đồng bào Miền Nam của họ. Họ nói là họ đã hành động vì sự tự do, chúng ta hảy nghe lời tuyên cáo xấc xược của họ:

- "Chiến thắng ngày hôm nay, không những là một chiến thắng của dân tộc Việt Nam, mà còn là chiến thắng của tất cả dân tộc khác, các dân tộc và những người yêu chuộng hòa bình, tự do, căn bản xem phẩm giá của con người là trọng yếu... Có độc lập và tự do rồi, thì ngày mai nầy điều gì chúng ta cũng sẽ làm được hết"

Ô Hô ! Họ đã đem cả hai thứ "Độc Lập" và "Tự Do" vào cho Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975 !

CÒN TỆ HẠI HƠN LÀ TẮM MÁU!

Không có xảy ra một cuộc tắm bằng máu như người ta hằng trông đợi. Và một điều hết sức ngạc nhiên khi người ta thấy những người man di mọi rợ, trong khi được dân chúng đón tiếp bằng một sự khinh bỉ ra mặt, đang thử làm quen với thành phố Sài Gòn rộng lớn nầy, dân chúng thì bất thần nghiêm mặt lại, làm như không có chuyện gì vừa xảy ra, trong khi thật sự thì không còn có gì còn giống như ngày hôm qua nữa.

Làm gì có chuyện tắm máu, đó không phải là thói quen của người cộng sản ! Và người nào có ý muốn chờ xem chuyện đó thì có thể tin được như vậy . Còn quá tệ hại hơn thế nữa kia !!!

Thật vậy, người ta nghe nói có nhiều vụ xử tử sơ khởi, đó đây...không có chứng cớ: Tại Ban mé Thuột họ cho ám sát tất cả những cấp chỉ huy và cựu quân nhân thuộc các dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt đã chạy cộng sản di cư vào Nam từ năm 1954-1955.

Bác sỉ Vincent, d’Athis Mons, người Việt 100%, có quốc tịch Pháp, thuộc đoàn "bác sỉ không biên giới" trong Phái Bộ Y Tế do nước Pháp gởi sang Việt Nam, nên ý kiến rất là tự do và trung thực. Không cần biết đầu óc ông ta nghĩ như thế nào trước đó, khi mà tất cả phái bộ của ông được khoản đãi linh đình ở Paris ngày 1¾/75, trước khi rời nước Pháp để sang Việt Nam, do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức. Mặt Trận đã khuyên ông không nên bắt liên lạc với Sài Gòn và hảy tạm nằm ở Vũng Tàu chờ "quân giải phóng". Phái bộ nghe theo lời MTGPMN, không vào Sài Gòn mà ra nằm chờ ở Vũng Tàu, thuốc men và dụng cụ y khoa được tạm gởi vào một bệnh viện dân sự của VNCH. Có vài cuộc pháo kích vào thị xã, và người ta mang lại khoản 80 người bị thương vừa thường dân vừa lính nhảy dù. Họ săn sóc cho những người nầy. Đến lượt những người man rợ đến, có lẽ chưa có chỉ thị của cấp trên, nên họ ra lệnh ngưng tất cả mọi công tác và ý định chửa trị cho những người bị thương nói trên. Rồi một toán khác lại đến, những người nầy có vẻ hiểu biết hơn, nhưng ra lệnh buộc tất cả phải rời khỏi bệnh viện nầy, vì họ đang cần dùng. Vì các "bác sĩ không biên giới" không biết phải đưa những người bị thương mà họ đang chửa trị đi đâu, nên họ từ chối lệnh nầy. Tức thì một người chỉ huy toán "giải phóng quân" nói với bác sỉ Vincent rằng: "Đây rồi chúng tôi đã có cách." Nói xong ông ta rút súng ngắn ra, kê vào đầu một người bị thương cạnh đó, và bóp cò. Bác sỉ Vincent phản đối. Người ta lôi ông ra chỗ khác...và rồi ông nghe nhiều tiếng súng lục nổ.... đến lúc súng hết nổ thì bệnh viện đã trống, sẳn sàng cho "giải phóng quân" sử dụng!

Đó là một trong những nhân chứng và chứng cớ hiếm hoi của những cuộc hành quyết nhanh gọn. Và người ta phải rất ngạc nhiên lắm mới thấy được sự đứng đắn của những kẻ xăm lăng man rợ nầy. Một người trong phái bộ "bác sĩ không biên giới" phải thốt lên: "Thật là giống y như bọn phát xít Đức hồi năm 1940 !"

Những gì xảy ra tại Sài Gòn đều giống y như đã xảy ra tại HàNội. Và những ai đã từng có "sống" tại Bắc Việt vào những năm 1954-1955 đều phải buồn lòng và sửng sốt mà thấy vở tuồng cũ năm xưa đang được họ diễn lại tại Sài Gòn. Về sau nầy, để tránh nhân chứng gây trở ngại cho những cuộc hành quyết, ở xa trung tâm thành phố và ở vùng ngoại ô hay vùng thôn quê, lần lần bắt đầu có những cuộc thanh trừng dưới hình thức các tòa án nhân dân, xử và hành quyết ngay tại chỗ, xử những người nào bị bất cứ ai (vì tư thù hay vì đãng vụ) tố giác hay gán cho cái tội "có hành vi phản cách mạng", hay "là kẻ thù của nhân dân", không cho người tù nhân có cơ hội hối cải. Thế mà dân chúng phải buộc lòng ưng chịu, sau đó hoặc là tử hình, hoặc được đưa đi "trại cải tạo", nơi đó người ta phải chịu chết dần chết mòn, vì tinh thần bị lụn bại còn tệ hại hơn là thể xác bị hao mòn.

Những ai vẫn còn tưởng rằng cộng sản và thể chế độc tài chuyên chính của họ là nhân đạo, thì bằng cớ rành rành ở đây sẽ chứng minh một lần nữa là không phải như vậy. Người ta có thể cho những hành động vô nhân đạo nầy là của một giống dân khác, ở một quốc gia khác, có một thời tiết khác, nhưng cho dù từ miền Trung Âu hay Đông Âu, đâu đâu cũng vậy, chỉ có một âm điệu giống nhau mà thôi !

Không có gì có thể thay đổi được tính ác độc trong một guồng máy chánh quyền chỉ biết dựa vào hệ thống tố giác đê tiện và sự kềm kẹp của bộ máy công an.

Vậy hởi những ông bạn của Thế Giới Tự Do! các bạn đã biết yêu tự do và biết giá trị của hai chữ "Tự Do" là thế nào rồi, các bạn hảy coi chừng !!!

Cũng như tại HàNội năm 1954, mặc dầu bộ máy chánh quyền cũ không còn nữa và có một sự lộn xộn hổn tạp xảy ra sau đó, người ta cũng rất đổi ngạc nhiên mà thấy người cộng sản lúc nào cũng hòa nhã ân cần khi đón tiếp người dân, mặc dầu họ khó chịu vì những câu hỏi tuy có hóc búa nhưng cũng dễ trả lời; cũng có khi người ta phải chịu khó điền vào một số quá nhiều giấy tờ như bộ máy hành chánh cộng sản thường đòi hỏi, nhưng không bao giờ người ta được trả lời dứt khoác,"không", mà chỉ được hẹn lại một ngày nào đó để họ có thời gian điều tra và nghiên cứu qua hệ thống tố giác của nhân dân, có lẽ "chắc ăn" hơn là từ chối thẳng thừng ngay lúc đó.

TRƯỚC HẾT LÀ MỘt SỰ HỖN LOẠN
Như vậy là ngày hôm trước hôm sau tất cả các hãng xưởng đều đóng cửa, tất cả mọi người đều chờ đợi trong căng thẳng và lo âu. Tuy nhiên tất cả những chướng ngại vật cũ đều được dẹp bỏ, không còn thấy những đường phố nào còn có rào cản, không còn những vườn chơi nào bị cấm vào, không còn một công sở nào còn có người canh gát, tất cả đều được tháo gở, dĩ nhiên mọi luật pháp của chế độ cũ cũng đều không còn nữa, người ta sống trong một sự rỗng không hợp pháp mà có một số người lợi dụng để làm điều bất chánh.

Trật tự lưu thông vì không có người điều hành nên không còn gì là quy tắc nữa, và những chiếc xe "honda" với tiếng nổ inh tai nhức óc lượn qua lượn lại như một đàn ong vở tổ, trong lúc người ta đua nhau dọn sạch các nhà ở hay văn phòng của người Mỹ, và xúm vào tháo gở hết những ô tô Hoa Kỳ đẹp bóng bị bỏ lại khắp nơi, gở rất kỹ lưỡng và sạch sẻ không bỏ sót một thứ gì, y như một đàn kiến siêng năng đang bu đen một khúc xương vậy.

Điện thoại của thành phố thì còn xử dụng được, nhưng bưu điện thì đóng cửa và mọi liên lạc ra ngoài đều bị cắt đứt, cả đài phát thanh, viễn ấn tự (télétype)cũng vậy, mặc dầu các tòa đại sứ ngoại quốc vẫn còn mở cửa làm việc. Dĩ nhiên sân bay thì ngổn ngang đủ loại xác phi cơ, ô tô, còn đường sá thì hư nát vì đạn pháo nên không thể nào vào được. Trong một cuộc họp báo của Tư Lệnh Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định, chánh quyền hiện hữu và duy nhất lúc nầy, thì một nhà báo có phản đối về việc đi lại không được tự do, thì được trả lời rằng "việc đi lại luôn luôn được hoàn toàn tự do, nhưng mỗi ông quận trưởng chỉ có quyền cho phép đi lại trong phạm vi trách nhiệm của quận mình mà thôi."

Không còn thấy một tý gì gọi là trù mật, là sầm uất như xưa của thành phố nữa, mặc dầu các chợ cũng còn lưa thưa một vài tiệm chạp phô và một vài quầy hàng còn bày bán một ít hàng xen lẩn với hình của Hồ chí Minh, trên cửa còn dấu vết của lá cờ vàng vừa được bôi cạo để thay vào đó màu đỏ của kẻ xăm lăng. Các quán giải khát, các quán rượu..chỉ mở hí cửa và bên trong thì trống rỗng, trong khi các cô chiêu đãi viên thì ngồi ngáp dài trước cửa, chờ đón những ông khách lạ từ xa....không mời mà đến, nhưng được mời mà không vào. Các trạm xăng công cộng thì hoặc bị lấy hết hoặc bị đốt lúc bộ đội Bắc Việt vào thành phố, nên người ta chỉ còn tìm được xăng với giá chợ đen, do một số người bán rong, xăng họ rút ra từ các xe của Mỹ còn bỏ lại hay của bất cứ xe vô chủ nào còn bỏ rãi rác trên hè phố. Sau đó thì các anh bộ đội Bắc Việt cũng bắt chước chơi theo kiểu Mỹ làm nhà cung cấp xăng cho bọn chợ đen bằng cách tự rút xăng trong xe chiến lợi phẩm của mình đang lái. Dài dài hằng 100 thước trên những con đường chánh của thành phố, nhất là sau nhà thờ Đức Bà và trên đường Lê Lợi, cả đàn ông đàn bà lẩn con nít kiên nhẫn đứng thành từng hàng mời khách bộ hành qua lại mua xăng đựng trong những võ chai rượu whít ky đủ loại .(nhưng coi chừng ! ai muốn mua phải chịu khó nếm thử để biết chắc đó có phải là xăng, là trà hay là dấm...)giá từ 250 đồng bạc một chai đến 1400 hay 1600 đồng một lít. Và cứ như vậy mà ô tô thưa thớt lần, các xe Honda cũng bớt gây ồn ào và từ đó xe đạp bắt đầu xuất hiện, một loại xe thông dụng của các quốc gia cộng sản nghèo. Giá của chiếc xe đạp cứ thế lên dần như dều, dầu vậy người ta cũng còn thấy thỉnh thoãng có người còn giữ một vài chiếc loại tốt thời xưa, sáng đạp một chiếc màu xanh chiều một chiếc màu đen, coi như để thay đổi thời trang!! Riêng những ông lãnh chúa mới thì ngồi chểm chệ trên những xe Mercédès sang trọng có dựng cờ trên đầu xe, hoặc ra vẻ vênh váo trên những xe mà họ vừa mới tịch thu được.

Trộm cắp tăng nhanh không nói được: chỉ trong khoản thời gian ngồi uống một cốc cà phê ở khách sạn Continental là chiếc xe của Đại Sứ Pháp bị đục thủng thùng xăng và chân máy đã bị tháo khỏi sườn xe rồi. Không có một người cảnh sát nào cả, người ta phải gọi những anh mặc quân phục xanh nhỏ con Bắc Việt đang thơ thẩn đâu đó, có lẽ họ cổ xúy cho hành động bất chánh kiểu nầy để có dịp khủng bố và thanh lọc dân chúng. Bộ chỉ huy ban quân quản thành phố sẽ trừng phạt nặng những người nầy, có lẽ không nhằm mục đích bảo vệ tài sản của người dân đâu mà chỉ cốt để lấy lòng dân mà thôi. Chỉ với tội ăn cắp vặt mà một em bé đã bị họ đánh gục. Và có một hôm nọ, một anh tài xế xe tải cán chết một em bé: người mẹ khóc than phản đối dử dội, và để cho bà nầy vừa lòng người ta hành quyết ngay tại chỗ người tài xế đó bất kể sự phản kháng của anh nầy, trong một không khí im lặng hết sức nặng nề của đám đông dân chúng đang cảm xúc đứng xem, không dám phản đối.

Công tác thông tin báo chí hầu như bị bải bỏ. Trước hết người ta tổ chức một nhóm sinh viên la ó phản đối một bài báo bị họ kiểm duyệt, sau đó họ mới đóng cửa hết trên 40 tờ báo của Sài Gòn mà không có một ai dám lên tiếng. Vài ngày sau đó duy nhất có một tờ báo được ra, tờ "Sài Gòn Giải Phóng", một tờ báo có cái tên mà tiếng Việt Nam có nghĩa là một sự thay đổi hết sức thô bỉ, sự thật nó chỉ là một mớ giấy tuyên truyền của chế độ cộng sản mà thôi. Dân chúng giờ đây chỉ có bám víu vào những tin đồn để mà sống qua ngày và tin đồn thì quá nhiều đến mức có thể làm cho họ say mê. Người ta nghe lén các đài phát thanh ngoại quốc, đài "Tiếng Nói Tự Do", đài BBC, đài VOA, đài Úc Châu v.v.. Tất cả các máy thâu thanh sau đó đều bị kiểm tra rất nghiên nhặt, và người ta được xem truyền hình phát từ HàNội mà sự "tuyên truyền nặng mùi quân phiệt còn rất là hiểm độc hơn của Đức quốc xả trong thời kỳ Hitler nữa", một anh nhà báo Pháp đã có nhận xét như vậy.

"ĐÊM QUA EM MƠ THẤY BÁC HỒ"!

Năm chiếc tàu hàng Nga Sô vừa cập bến chở theo toàn là "gạo" đúng lúc Việt Nam đang thiếu. Người ta phân phối gạo cho những phường đông dân trước; nhu cầu quá nhiều nên có nhiều sự phản đối. Người ta cho ngưng công tác phân phát gạo và chỉ cho tiếp tục lại vài ngày sau đó. Trong khoảng thời gian chờ đợi người ta cho nhiều toán kiểm tra đi từng nhà để thẩm định lại từng thành phần đáng nhận gạo. Một máy điện thoại hay một máy thu thanh dù là thuộc loại cổ lổ xỉ, được coi là xa xí phẩm, và người sở hữu chủ được xếp vào hạng giàu, không được hưởng phần gạo cứu đói, phần gạo nầy để cho những người nghèo cần hơn. Sự thật là ở Miền Nam giàu nghèo gì ai cũng có máy thu thanh cả !!!

Những sinh viên học sinh từ trước vẫn ham mê các tạp chí đầy hình ảnh khiêu dâm của Mỹ, tự nhiên đâm ra có nhiệt tình trong các cuộc chống đối phim ảnh, những bài hát, dĩa hát và các loại in ấn phẩm mà họ cho là đồi trụy, không lành mạnh. Các rạp chiếu bóng được cho mở cửa lại ngay, người ta cho chiếu các phim "chiến thắng Điện Biên Phủ", "đời sống bác Hồ", nhưng lèo tèo chỉ có vài khán giả bất đắc dĩ ngồi ngáp vắn ngáp dài... Cũng có nhiều người còn dấu lại một vài đỉa nhạc hay, và có người thì cố đọc ngấu nghiến lần cuối cùng một quyển tiểu thuyết đắc ý nhất của mình, nhưng rồi các cô cậu sinh viên học sinh trẻ tuổi chia nhau đi khắp thành phố lùng sục cho bằng hết các đỉa nhạc và các quyển sách còn sót, chất thành đống đốt lên như lửa trại, rồi múa hát chung quanh đó với những bài hát mới và vủ khúc bình dân Nga Sô. Các tiệm sách, các thư viện, đều được lệnh lập bản kê

khai sách báo hiện có, cũng giống như các doanh-xí-nghiệp khác vậy thôi, nhưng đối với sách báo thì các bản kê khai nầy chắc phải nộp cả kílô !

Một cô gái 16 tuổi, lớp 12 của một trường trung học tại Sài Gòn đã viết một bức thư cho một vị giáo sư Pháp văn của cô: "Tôi rất buồn mà thấy bộ mặt Sài Gòn bị thay đổi, ngày trước rất là tươi vui. Đời sống đã trở nên khó khăn. Có rất nhiều gia đình không còn có gì để ăn cho đủ no. Tôi không còn một phương tiện nào để tiếp tục học. Tôi cần phải tìm bất cứ công việc làm gì để đi làm..Nếu tôi có thể làm bồi phòng cho Thầy..."

Các trường tiểu học trong phường khóm đã được cho mở lại, các trường trung học cũng vậy. Với các em học sinh, người ta chỉ dạy "công dân giáo dục" và người ta chú trọng nhiều trong việc tập luyện phương thức căn bản trong công tác tuyên truyền, các bài hát, các khẩu hiệu, như người ta đã bắt dân chúng phải tập mỗi đêm từ 2 giờ đến 4 giờ sáng để "không bị thiệt mất giờ lao động", có hại cho việc sản suất. Với các em thiếu nhi, người ta tập họp lại rồi nhồi cho các em bài hát sau đây :

"Đêm qua, em mơ thấy bác Hồ,
Bác nhìn em bác cười,
Em vuốt râu bác, và vuốt tóc bác,
và bác nói với em:
mai nầy em sẽ là bộ đội."

Đức tin mạnh đến độ dường như có một số em nhỏ tin rằng đêm qua em mơ thấy bác Hồ thật ! Đối với các em lớn hơn thì có giáo viên hướng dẫn, có đạo hay không cũng vậy, thay vì đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, thì người ta cho học thuộc lòng bài hát và các khẩu hiệu biểu ngữ, rồi cùng nhau đọc lên năm điều khuyên răn của Hồ chí Minh:

- Phải yêu dân tộc và yêu tổ quốc,

- Phải lao động,

- Phải sống trong kỷ luật,

- Phải biết điều độ,

- Phải giữ gìn sức khỏe để phục vụ đất nước.

Đối với các sinh viên hay ít nhất là những em có điều kiện sinh sống để có thể còn tiếp tục học, thì người ta tổ chức họ lại thành từng trung đội và trung đội trưởng là một anh "cán bộ". Anh nầy có nhiệm vụ phải đào tạo cho mỗi người phải có một nghề hữu ích nào đó trong vòng hai tháng, xong đưa họ về vùng nông thôn để học tập cho biết "lao động là vinh quang", giúp làm công việc đồng áng, và nhất là truyền bá lời hay ý đẹp của chủ nghĩa Mác Lê. Nhưng trong khi chờ đợi "được" đi lao động ở nông thôn, thì với một tinh thần "tự nguyện" đáng khen, họ được trang bị mỗi người một chiếc vá và một cây chổi để "tự giác" đi tìm dọn sạch tất cả các đống rác trong thành phố. Tất cả mọi sự hoán đổi các khoa, ngành của trường đại học đã có dự trù sẳn từ trước cả rồi: Khoa Luật và Văn Chương sẽ được đóng cửa vĩnh viễn và thay vào đó là trường đào tạo thông dịch viên, dạy tiếng Nga, tiếng Tàu và cũng có tiếng Anh. Tiếng Pháp vốn thông dụng trong ngành Y Khoa thì nay bị cấm chỉ, không cho dùng nữa, và chỉ sẽ được dùng như một chuyển ngữ mà thôi.

Tóm lại, đó là những gì mà người ta đã quyết định về một sự "cải tạo con người, tư tưởng, và nền văn hóa" của Miền Nam Việt Nam .

Những bài toán về kinh tế và xã hội đã từng làm nhức óc các nhà lãnh đạo của chế độ cũ, và bắt buộc phải có một khoản viện trợ không ít của ngoại quốc, thì nay được người ta giải quyết cũng dễ dàng một cách lạ lùng. Người ta cho kiểm tra dân số, ghép lại thành từng tổ một. Ngay đối với những người nào vẫn tưởng rằng mình không có một vấn đề gì để người ta phải trách phạt mình, thì các cuộc điều tra phỏng vấn càng tỷ mỹ và càng làm cho họ sốt ruột nóng nảy lên. Còn đối với những người nào mà chế độ cho là thuộc "thành phần nguy hiểm", thì người ta cố tình lờ đi, để cho họ chờ...

Các quân nhân nào không chạy thoát thân ra ngoại quốc được thì họ trút hết quân phục vũ khí đạn dược, rồi tìm chỗ ẩn náo, hoặc với gia đình hoặc với bạn bè của họ. Họ được gọi đi trình diện tại các địa điểm kiểm tra, xong người ta vẫn cho họ đi về sau khi cho biết là họ sẽ được đi học tập ngắn hạn ở một trại cải tạo, xong về và sẽ trở thành công dân như những công dân VN khác. Nhưng khổ nổi ngay bây giờ đây, không công ăn việc làm, không lương không tiền...chắc chắn sẽ là một bài toán khó không có đáp số.

Tất cả các công chức cũng được gọi đi trình diện, xếp theo từng loại chức vụ, ngạch trật, nhưng chúng ta phải thấy được sự nhục nhã khó chịu của họ trong bộ cánh chỉnh tề có thắt cà vạt, cúi mình trước anh "cán bộ" trước cửa tòa nhà Quốc Hội Sài Gòn. Người ta không có hứa bất cứ điều gì với họ cả.

Nhiều bản yết thị kêu gọi những người ngoại quốc đi trình diện, thường trú thì tại các văn phòng cảnh sát cũ, tạm trú thì tại Bộ Ngoại Giao. Vì số người trình diện quá đông nên họ phải xếp dặt lại cho có trật tự, phân chia từng loại theo từng gốc dân. Đối với người Pháp chúng ta thì trước hết là người Pháp chính gốc, kế đó là những người lai Pháp, sau hết là những người Việt có quốc tịch Pháp. Với loại nào cũng vậy, họ bắt điền vào những bản "vấn đáp" dài lê thê, khai rõ tên họ và lý lịch ba đời, thời gian và lý do cư trú, tình trạng xã hội, tài sản ở Việt Nam, và những máy móc dụng cụ hiện có: truyền hình, máy thâu thanh, khuếch âm nghe nhạc, máy ảnh, súng, điện thoại v.v...Có nhiều nam nữ cán bộ cố gắng giúp phụ điền giùm các giấy tờ quá nhiều nầy, lẻ ra phải được thảo ra bằng tiếng Việt. Cũng còn phải nộp cho họ hình căn cước, mà do đó nghề chụp hình căn cước nay tự nhiên trở thành một kỹ nghệ mới đắt khách nhất lúc bấy giờ.

Nhưng tất cả đều được báo cho biết rằng mọi mưu mô hay hành động chống phá cách mạng đều bị cấm, nhưng họ không nêu rõ hình phạt. Và từ đó mới bắt đầu có hành động tố giác, ngay trong những người Pháp chúng ta, vì quá lo sợ, lại được người ta khuyến khích, dù đây là một việc làm quá bỉ ổi.

HÃY BIẾT VỖ TAY HOAN HÔ NHỮNG KẺ CHIẾN THẮNG.

Điều chính yếu ở đây là phải biết "tham gia"

Trước hết là tham gia vào buổi lễ mầng ngày "được" giải phóng. Ngày 1 tháng 5, ngày lễ lao động, dân chúng tập hợp đông đão ngay bải cỏ trước dinh Tổng Thống cũ. Nhìn thẳng vào mặt tiền sơn trắng của bao lơn dinh Độc Lập,n2 ta thấy rợp màu cờ của Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, không có một lá cờ nào của Bắc Việt, nhưng nổi bật lên trên hết phía trên bao lơn là một bức chơn dung lớn của Hồ chí Minh, đang đứng đưa tay vẫy chào.

Suốt đêm qua, người ta kêu gọi dân chúng hãy làm những biểu ngữ bằng vải với đủ màu sắc rực rỡ và viết lên đó những câu khẩu hiệu được dạy trước đó, hoặc vẽ chơn dung của Hồ chí Minh, tất cả đều tự túc vì người ta dư biết là người Việt Nam làm thứ gì cũng được, không cần biết có phương tiện hay không.

Mỗi người đi dự buổi mít tinh phải đem theo hai cây cờ giấy nhỏ, một của Bắc Việt và một của Chánh Phủ Lâm Thời Miền Nam để luôn tay phất qua phất lại và không ngớt tiếng hoan hô theo hiệu lệnh của cán bộ, từng chập từng chập ngắt khoản bài diễn văn của vị Tướng chỉ huy Ban quân quản Sài Gòn GiaĐịnh đứng trên bục cao ở bao lơn dinh Độc Lập. Đứng sau tiểu đoàn danh dự, đám đông dân chúng bị dồn cứng trên bải cỏ mà các chiến xa T.54 đã cày nát hôm qua, sau lưng họ là các cánh cửa sắt của cổng chính đã bị người ta cố ý cho chiến xa T.54 ủi sập theo yêu cầu của các toán phim ảnh Bắc Việt. Nhiều loa phóng thanh rã rít phát ra những giọng điệu cũ, những bài họp xướng mà người Pháp chúng ta nghe thì nhớ ngay tới bài quốc ca La Marseillaise của mình hay một bài hát quốc tế nào đó. Mỗi lần nghe thấy hiệu lệnh thì người ta đồng loạt vỗ tay rất nhịp nhàng và reo hò đồng loạt nghe như là tự động hoan nghênh thật sự vậy, làm cho diễn giả dù khó tính đến đâu cũng phải vừa lòng. Sau đó người ta đi diễn hành, tay phất cờ giấy của mình.

Buổi lễ bắt đầu từ sáng sớm, khoản 8 giờ 30 thì kết thúc và mỗi người trở về nhà gương mặt tối sầm trở lại, có vẻ quá đau khổ vì vừa phải chịu một sự nhục mạ nặng nề. Tuy nhiên các thanh niên thì có nhiều trò chơi vui được tổ chức hôm đó nên cũng tạm khuây khỏa được. Nhưng rồi sau đó thành phố lại trở nên một thành phố chết, không có một chút sinh khí nào.

Sinh nhật cụ Hồ năm nay rơi đúng vào một ngày quá xấu, nhưng người tavẫn tổ chức. Trên sân cỏ trước dinh Độc Lập người ta đặt một cái bục để chơn dung cụ Hồ lên đó. Rồi cũng đám đông dân chúng hôm nọ được gọi tới, rồi cũng những biểu ngữ cũ, những khẩu hiệu cũ được giăng lên chung quanh nơi hành lễ, rồi cũng những lá cờ nhỏ hôm trước, cũng những tiếng hoan hô những tiếng vỗ tay theo lệnh như hôm trước...Người ta cố tìm trên khán đài để xem mặt ông chánh phủ Lâm Thời Miền Nam, vì cho tới giờ nầy người ta vẫn chờ mà cũng không ai biết được thành phần chánh phủ có những ai? mặt mày họ ra sao ?...

Phải chăng để đính chánh một tin đồn ngoài phố đang làm cho các bà vốn ăn diện quá mức trước kia, nay không còn dám đeo đồ trang sức nữa, không dám mặc áo dài màu mè sặc sở nữa, tóc không còn uốn chải tươm tất nữa...dường như muốn trở về đời sống khắc khổ sằn dã, đâu đâu cũng chỉ thấy có độc một màu "củ nâu" mà thôi, nên bà Nguyễn thị Bình, từ bên Pháp về, mặc một chiếc áo dài tơ lộng lẫy, môi son má phấn lòe lẹt, cốt ý để cho người ta nhìn thấy sự sung sướng hân hoan của bà đối với chiến thắng của Cách Mạng.

Có gần 8000 bộ đội Bắc Việt tham gia cuộc diễn binh. Bộ binh thì được chở trên xe Molotova của Liên Xô, ngồi trên băng cây, mặt hướng về phía trước với quân phục màu xanh "ve chai" nghèo nàn, nhưng có mang bao tay vải thô không biết lấy từ đâu ra. Theo sau là đủ mọi loại chiến cụ, chiến xa T 54, hỏa tiễn SAM của Liên Xô, pháo binh nặng, pháo phòng không, truyền tin, công binh, tất cả đều cho thấy không được bảo trì tốt, đó là nhận xét rất tỷ mỷ của một quân nhân. Dù nhìn bên ngoài có vẻ khù khờ, không bóng loáng nhưng đó vẫn là quân đội và vũ khí của kẻ chiến thắng. Dần dần các hè phố và những cửa sổ bắt đầu có người tò mò xem. Người ta không vỗ tay. Ngồi thẳng lưng trên băng gỗ trên xe, các bộ đội cố giữ tư thế hoàn toàn bất động. Giữa các đơn vị, với một khoản cách đều nhau, là những quân kỳ: một lá màu đỏ, có lẽ là cờ của đơn vị diễn hành, vì trên lá cờ có gắn một số huy chương. Tất cả đều là quân nhân Bắc Việt. Đúng là các đơn vị Bắc Việt đã tham dự cuộc tổng tấn công Miền Nam Việt Nam đang diễn hành để ăn mừng chiến thắng của họ.

GƯƠNG MẶT HỌ KHÔNG ĐƯỢC VUI !

Trong nhà lồng chợ và trên các đường phố lân cận, các gian hàng bắt đầu mở cửa, lưa thưa, nhưng cũng có hàng. Người mua quá ít, giá cả tăng lên gấp 5 lần chỉ trong vòng một tuần, do người ta không có bổ hàng về nên hàng hóa cũng hiếm. Tuy nhiên rau cải các loại vì là sản phẩm địa phương nên cũng bình giá. Thật ra không phải thiếu hàng hóa, Sài Gòn luôn luôn có 6 tháng lương thực dự trử, nhưng vì tiền càng ngày càng cạn dần, nên người mua càng ngày càng ít đi, người nhìn chơi thì càng ngày càng nhiều.

Cho tới ngày 30/4/75, khi người Mỹ cuối cùng rời khỏi Miền Nam Việt Nam thì đồng đô la tăng giá vùn vụt mỗi ngày vì người ta hy vọng đi ngoại quốc được. Chỉ riêng những người có quyền thế, hoặc vợ con, cha mẹ, hay bạn bè của người Mỹ thì được cửa mở cho vào tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, được trực thăng bốc đi đều đều và liên tục cho đến trưa ngày 30, đưa ra hạm đội đậu ngoài khơi Vũng Tàu, để rồi từ đó được đưa đi thẳng tới đão Guam. Còn những người khác thì muốn vượt qua khỏi đám đông đang đứng nghẹt trước cổng tòa Đại Sứ. thì trước hết phải biết dúi cho người nào đó xuyên qua lô cốt gát, hằng ngàn hay hàng vạn đô la mới được người ta hé cửa cho vào để được đưa đi tìm Tự Do. Từ sau ngày 30 thì hy vọng đi Hoa Kỳ không còn nữa, đồng đô la lại xuống giá khoản vài trăm đồng bạc, và rất nhiều người lợi dụng được tình thế nầy. Đồng quan Pháp thì lại có giá. Vì người ta đồn rằng sẽ có những chiếc tàu Pháp sắp cặp bến Sài Gòn để chở những người muốn sang tỵ nạn ở Pháp. Người ta còn đồn rằng chiếc tàu cặp bến đầu tiên sẽ là chiếc Cambodge, một chiếc tàu chở khách rất đẹp thuở xa xưa đã được giải giới từ lâu rồi.

Nhưng rồi đùng một cái, mọi người đều hoảng sợ. Tất cả các ngân hàng đều bị đóng cửa, các tủ sắt của ngân hàng bị niêm phong, thợ thuyền công nhân đều không có lương, giá sinh hoạt hằng ngày tăng nhanh đến một mức độ không thể tính trước được nên ai cũng phải lo tiết kiệm tối đa mới có thể kéo dài đời sống cho gia đình mình được.

Rất may là điện xài trong nhà vẫn còn, nhưng người ta cũng phải dự trù có ngày điện có thể bị cúp. Hơi đốt thì không thể tìm đâu ra, nếu có thì giá chắc phải cao kinh khủng. Người ta xài lại những lò đất đốt bằng than hay bằng củi.

Ngoài "chợ trời" thì quang cảnh thật quá vui. Người Mỹ đi rồi thì thay vào đó đã có các anh bộ đội Bắc Việt, còn khờ khạo hơn nữa, họ chỉ say mê ngắm đủ mọi thứ, máy thu thanh (mà họ gọi là đài), máy ảnh, các loại máy điện tử, và nhất là đồng hồ đeo tay.... đủ các loại hàng mà từ cha sanh mẹ đẽ tới giờ nầy các anh không hề được nhìn thấy qua bao giờ. Túi các anh đầy giấy bạc VNCH, không biết các anh "chôm" từ đâu. (tác giả dùng chử chapardés, có nghĩa là đánh cắp). Những người bán hàng vui vẽ mơn trớn họ, họ mua đại khái một vài món không đâu ra đâu, tuy vậy giá cả cũng lên vùn vụt. Nhưng rồi hai tuần lể sau đó thì giá cả lại tụt xuống, đây là một dịp may hiếm có nhưng không ai muốn mua sắm gì nữa vì làm gì còn tiền đâu nữa để mà mua ? Bán ra thì có!!!

Như thế là bài toán kinh tế đương nhiên đã được giải quyết, bài toán mà người ta cứ nghỉ là phải có viện trợ của ngoại quốc đều đều mới có đáp số được. Chỉ cần đóng cửa các ngân hàng, không trả lương cho thợ thuyền, giảm thiểu tối đa sự lưu thông của đồng tiền, bắt người ta phải chấp nhận một đời sống khắc khổ có khi phải đưa con người tới cái đói hoặc đưa các em nhỏ vào con đường bất lương trộm cắp...tự nhiên xã hội tiêu thụ sẽ biến mất và thay vào đó sẽ là xã hội tiện tặn kiểu Mác-Lê.

Một vài cán bộ kỹ thuật người Miền Nam từ HàNội đến Sài Gòn. Họ than phiền là bị giữ lại ngoài Bắc quá lâu, phải chờ đến những 20 năm mới gặp được người nhà. Họ về ngay gia đình: người ta nhìn họ như những con người của một thế giới khác, của một hành tinh nào xa lạ, dù ngôn ngữ vẫn là một ngôn ngữ Việt Nam nhưng họ khó mà có thể hiểu nhau được. Họ có vẻ được thỏa mãn một ít thôi, nhưng kể như không được thỏa mãn gì cả. Họ thuật lại là họ có được đặc quyền đặc lợi vì họ là kỹ sư, là chuyên viên kỹ thuật, do vậy họ được lương 70 đồng một tháng để sống, tuy ít đó, nhưng vẫn sống được: "Chỉ với 70 đồng thôi thì làm được cái gì ?" người ta hỏi họ như vậy.

Tất cả đều mặc quần áo màu xanh lá cây. Dường như người ta có thể phân biệt được sỉ quan và cán bộ bằng một dấu hiệu nhỏ gắn trước nón, một súng ngắn đeo bên hông, với một dáng điệu tao nhã nào đó được cố tạo ra để che dấu gương mặt đôi khi "sắt máu" không ai muốn nhìn.

Các bộ tham mưu và các phòng sở của họ được tung ra đóng rãi rác khắp nơi. Tất cả các nhà có phòng trống (hay có khi không có) đều "được" họ tới chiếm ở, gọi là "xin ở nhờ", và mỗi khách sạn, mỗi hiệu ăn, nhà hàng...đều được yêu cầu dọn cho 100 phần ăn mỗi ngày, dĩ nhiên không tính tiền !

Tại khách sạn Majestic, ngay đầu đường Catinat và trên bờ sông Sài Gòn, có một sĩ quan cấp tướng người Pháp đang ở. Ông là khách trọ duy nhất ở đây. Ngày 29 tháng 4, trước ngày Sài Gòn buông súng xuống, một trái đạn rốc kết san bằng tầng lầu trên của phòng Ông đang ở, chết một người gát đêm của khách sạn. Sau đó, khi quân Bắc Việt chiếm xong Sài Gòn, thì Ông là người khách duy nhất trong căn phòng ăn rộng thênh thang với 100 anh quân phục xanh lá cây, chia nhau ngồi làm nhiều bàn. Họ có đứng dậy khi ông tướng nầy bước vào phòng ăn, rồi mỗi người cúi xuống chén cơm mình ăn vội ăn vàng, không nói một tiếng nào, ăn xong lẳng lặng mạnh ai nấy đứng dậy, mạnh người nào nấy đi, yên lặng dễ sợ, khác xa các phạn điếm ồn ào và vui nhộn của quân đội Pháp chúng ta hay của Quân Lực V NCH thuở nào. Tất cả đều có vẻ không được vui, không hiểu tại sao.

Sau đó người ta thấy họ đeo băng tay đỏ, có may trên đó chữ K. kèm theo một số: như K.21 hay K.8 chẳng hạn. Sau khi họ thu thập xong các tin tức cần thiết, họ chỉ định nhiều loại ủy ban có nhiệm vụ phải nắm chặt hoạt động của từng nghành kinh tế sau khi kiểm kê xong các loại hàng. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên không mấy vui. Vừa gặp người chủ xưởng họ đã quá vội vàng trách ngay, phủ đầu:

- "Ông không trả lương cho thợ ?".

Người chủ bèn gọi ngay tất cả thợ của mình đến chứng kiến câu chuyện. Ông nói:

- "Tôi coi xưởng nầy đến nay đã 20 năm rồi. Thợ được trả lương rất đều, cứ mỗi 15 ngày một lần."

"- Đúng, đúng ! vài người thợ phát biểu, ông nầy là một người chủ rất tốt."

"- Ngày 30/4, họ chưa có lương. Vì họ vắng mặt ngày hôm đó. Các ông pháo rốc kết vào họ và ngân hàng thì bị các ông cho đóng cửa, cho tới ngày hôm ông đi lãnh nay vẫn còn đóng. Nếu các ông cho mở cửa lại, tôi sẽ ký một ngân phiếu là ngay" người chủ nói.

"- Chúng tôi không thể cho ngân hàng mở cửa lại được. Chúng tôi phải kiểm soát tất cả các chương mục, tất cả, ông nghe chưa? để tìm moi ra những việc làm xấu xa của "chế độ cũ", họ nói. (nguyên tác: ancien régime. Tác giả không biết danh từ "ngụy quyền" như Cộng sản đã dùng từ 30/4 cho đến bây giờ)

"- Trong trường hợp đó, chính các ông là người không chịu trả lương cho thợ", người chủ nói.

Sau đó họ nói chuyện khác với nhau.

Tất cả những hãng, xưởng, nhà máy v.v.. đều phải qua một cuộc kiểm kê rất tỷ mỷ và trong một thời gian rất là lâu, khiến cho mãi đến hai tháng sau chưa có nơi nào mở cửa làm việc lại được cả. Chỉ có vài nơi như hảng rượu bia BGI và một xưởng dệt làm việc lại được, vì họ còn nguyên liệu.

Trong tất cả các hãng xưởng, nhà máy...chỉ có một luận điệu được nhai đi nhai lại. Người ta cho tập họp chủ, thầy, thợ, công nhân lại và người ta tuyên bố:

- "Bắt đầu từ giờ nầy, tất cả các anh đều là chủ cả."

Hoặc là: "Bắt đầu từ bây giờ, tất cả các anh đều là công nhân."

Và người ta còn giải thích thêm: "Tất cả các anh đều là công nhân viên của Nhà Nước. Nhà Nước sẽ cung cấp cho các anh nguyên vật liệu, sẽ gánh cho các anh mọi phí khoản điều hành, nhận tất cả các mặt hàng do các anh sản xuất, chịu trách nhiệm về sự tiêu thụ các món hàng nầy theo phương cách tốt nhất, hoặc trong nước hoặc ra nước ngoài bằng cách trao đổi hàng hóa giửa quốc gia nầy và quốc gia khác."

Và cứ như thế là đùng một cái người ta chuyển ngay nền kinh tế thị trường có lợi cho dân chúng sang một nền kinh tế chỉ huy thung giãn kiểu Mác Lê chỉ có lợi cho chế độ.

Rồi người ta còn lưu ý thêm, trịnh trọng: "Tất cả các anh đều có bổn phận và quyền lợi để cho hãng xưởng chúng ta phồn thịnh lên. Các anh đều có trách nhiệm phải giữ gìn cho hãng xưởng chúng ta chạy tốt, và nếu các anh thấy được mọi biến chuyển xấu nào, bất cứ từ đâu đến, các anh có bổn phận phải tố cáo ngay mỗi buổi chiều với cán bộ trực. Nếu có gì nghi ngờ, và tối đến mà các anh suy nghĩ tới một vài sự việc tiêu lạm hay bất cứ lương lẹo nào mà các anh không thấy được ngay lúc đó, thì sáng ra các anh hảy nói cho cán bộ nghe liền."

Lúc bấy giờ và chỉ có đến lúc bấy giờ, cả hai bên chủ và thợ, ngay cả những ai đã đặt hy vọng vào một nền kinh tế chỉ huy, ai ai củng biết là tai họa đã đến với chính mình rồi.

Tuy hành động tố giác có làm cho họ kinh tởm thật đấy, nhưng họ vẫn biết rõ rằng sớm hay muộn gì họ cũng bị bắt buộc phải làm như vậy, nhưng dù sao ngay giờ nầy thì họ rất khinh chuyện đó. Vã lại sau đó tin tức và tiếng đồn từ những người từ Miền Bắc trở về, đã cho họ thấy rõ là "cái gì sẽ đến cho họ" và chế độ Miền Bắc cũng như ở Miền Nam sẽ như thế nào.

Mỗi người thợ, mỗi công nhân chỉ được lãnh mỗi ngày 50 $ và 700 gram gạo, đó là phần lương của riêng anh, mà cũng được coi như của cả gia đình anh, không cần biết gia đình anh có bao nhiêu người, (kể cả trường hợp người chồng là người duy nhất phải gánh chịu mọi tiêu xài cho 1 vợ và 8 con).

- "Làm gì đủ ăn cho một người !" một người công nhân nói.

- "Cũng chưa đủ để trả tiền điện nấu cơm" người vợ anh mỉa mai nói.

MỘT CƠN DỊCH ĐANG LAN TRÀN: TỰ SÁT

Như vậy là tất cả đều phải đi "lao động". Đó là một cái luật, một cái luật khắt khe "không lao động là không có quyền sống". Người dân Miền Nam hay hoài nghi nên chưa chịu tin như vậy, và vì quá khôn lanh nên lúc nào họ cũng tìm cách sắp xếp, chưa bao giờ chịu tin là tai họa đã đến với mình mặc dầu nó đã lù lù đứng trước mặt mình rồi ! lúc nào họ cũng lạc quan một cách ngoan cố và liều lĩnh, sẳn sàng tự sửa mình mà không muốn nghe lệnh ai ép buộc mình, tuy hay nói nhưng vẫn là người thợ khéo tay khéo chân, lúc nào cũng vui vẻ và khôi hài, có tinh thần phán đoán và diễu cợt chọc cười cho quên mệt. Do vậy mà họ không thèm biết đến cái luật lao động kỳ quái đó, vì lúc nào họ cũng tự hảnh diện là người Miền Nam, chê người Miền Bắc, coi người Miền Bắc như là một người man rợ không hơn không kém. Họ không chịu "theo" cái luật đó, họ nghĩ rằng họ sẽ nắm được những người nầy, họ đánh cuộc như vậy và không biết họ đánh cuộc đến bao giờ ?

Một vài người nghĩ rằng Miền Nam là một quốc gia an lạc, giàu có phi thường sẽ không giống như Miền Bắc. Trí khôn lanh và sắc bén của dân chúng sẽ không chấp nhận những điều kiện của Miền Bắc cũng như sự chỉ huy của những người Miền Bắc. Thế rồi tự nhiên những danh từ "thống nhất đất nước" là những danh từ đầu môi chót lưỡi của bộ đội Miền Bắc từ lúc vừa bước chân vô thành phố Sài Gòn, nay từ từ dường như được rút lại, không còn thấy xuất hiện trong những bài diễn văn hay trên các biểu ngữ nữa. Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam kéo dài thời gian thành lập và cho ra đời thành phần một chánh phủ Miền Nam, có lẽ là do một sự tranh chấp nội bộ giữa người Nam và người Bắc. Miền Bắc nói: "Chúng ta sẽ thống nhất". Miền Nam đã chánh thức tuyên bố với những danh từ hết sức dè dặt rằng: " Sẽ đi tới thống nhất khi nào hội đủ điều kiện đặc biệt."

Càng ngày càng có nhiều người bất mãn, và càng ngày càng có nhiều người chán đời. Trong vòng vài tuần lễ, không cần biết hôm nay đã xảy ra việc gì, có khoản từ 15 đến 20 nhân sĩ tự tử, chết.

Một ông đại tá công khai trước đám đông người dùng súng bắn vào đầu một phát đạn, chết. Ông có mang một tấm bản trên ngực, viết: "tôi đói".

Một người khác leo lên đông gạch vụn của tượng đài "tình đồng đội" trước Nhà Hát Tây Sài Gòn (Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa) vừa bị phá sập, đổ xăng vào người và tự thiêu, chết.

Nhiều phóng viên chạy nhanh tới để chụp ảnh, các anh bộ đội đến ngăn cản, không cho chụp ảnh nhưng lại rất thản nhiên để cho những người muốn chết được chết.

Đó là những chuyện thường xảy ra gần như hằng ngày. Có nhiều quân nhân đã được giải ngũ, không việc làm, sợ bị đi trại cải tạo, biết được vũ khí chôn dấu còn nhiều, và với một cây súng cũng có thể vào sống trong rừng được, những người mất hết hy vọng, những cấp chỉ huy cương quyết...tất cả đều vào bưng, vào rừng, vào núi, gia nhập nhóm kháng chiến còn đang hoạt động mạnh, không cần biết đó là một sự kết thúc hay một sự bắt đầu của một niềm hy vọng....Dĩ nhiên Hànội lên án chuyện nầy và thú thật là chưa giải quyết xong Miền Nam Việt Nam.

ÍT NHẤT NGƯỠI TA CÓ THỂ RA ĐI ?

Tuy nhiên người ta không để cho một người nào được ra đi cả, dù họ có muốn. Không có phương tiện chuyên chở ư ? Không có phương tiện kiểm soát ư? Không có ý muốn như vậy ư? hay họ sợ một lỗ trống trong lưới sẽ làm sẩy hết đàn cá? Tất cả mọi biện pháp đều tốt, người ta cho phép chuyển điện tín gia đình ra ngoại quốc, miễn là để cho chánh quyền thêm vào một câu: "Về ngay đi, gia đình đang chờ anh."

Một số đông người, cả nam lẫn nữ, đến lãnh sự quán Pháp xin chiếu khán nhập cảnh, hay để xin nhập tịch Pháp, hay để xin hồi tịch Pháp. Người ta đã có dự trù cho những người Pháp có thể rời khỏi Việt Nam lúc nào cũng được, nhưng ai có vợ hay có chồng người Việt thì không được mang họ theo và nếu đã có con thì cũng phải để chúng ở lại Việt Nam.

Nước Pháp là quốc gia đã chấp thuận nhận một số dân tỵ nạn Việt Nam , nhưng đó cũng chỉ là lời hứa đầu môi chót lưỡi. Dường như là nước Pháp có ký một thỏa hiệp có lợi cho thể chế hiện tại, hay ít nhất cũng có phần nào hơi thận trọng để khỏi làm mất lòng họ, vì thật ra Pháp đang còn bận tâm lo cho những công dân của mình đang còn kẹt tại đó, theo lời yêu cầu của những người nầy.

Có gần một triệu người Miền Bắc đã chạy vào Miền Nam , theo chân quân đội Pháp năm 1954-55. Bây giờ nếu Việt Nam mở cửa thì vài triệu người Việt Nam sẽ tìm cách sang định cư ở Pháp ngay. Tàu nào mà chuyên chở cho hết đây ? Và người Pháp chúng ta phải làm sao đây ? trong lúc quốc gia chúng ta đang lo cho nền kinh tế bị suy thoái và nạn thất nghiệp, và cũng chưa ổn định xong cho một triệu người Phi gốc Pháp của chúng ta? Thật là một bài toán đau thương, một bài toán nan giải!

" -Vậy là chỉ còn có nước đem họ liệng xuống biển Nam Hải cho cá mập sơi tái mà thôi !" Linh mục Hoàng Quỳnh đã nói như vậy.

Hay là chúng ta cứ để họ chết dần chết mòn ở Miền Nam Việt Nam , vốn đã sớm biến thành một nhà tù vĩ đại rồi, với một chế độ nô lệ đáng ghê tởm và một bức màn sắt bao kín mít, không một tiếng kêu rên thống khổ nào bay lọt được ra ngoài.

Nếu người Pháp chúng ta không chịu mở rộng con tim, hay mở rộng cửa biên giới cho những người từ phương trời xa kêu gào cầu cứu với chúng ta, thì ít nhất chúng ta cũng phải biết được rằng, cũng như các nơi khác, ở đó vừa có một bằng chứng mới nữa, đó là: người cộng sản không bao giờ biết đến hai chữ "nhân đạo" là gì, và họ đang tiêu diệt con người.

Xin cầu nguyện cho người Pháp chúng ta biết lo sợ, khi họ cũng bị rơi vào trường hợp phải bị người ta bắt phải vỗ tay hoan nghênh, và cũng xin cầu nguyện cho người ta đừng bắt buộc họ phải cười, nếu họ không thích cười vì họ không còn cười được nữa: "Cộng sản chỉ có một thứ Tự Do, lãnh tụ cộng sản Pháp, ông Marchais đã nói như vậy. Thật vậy, trong chế độ cộng sản, chỉ có một thứ Tự Do, đó là "Tự Do Không Có Một Thứ Gì Cả" !

Không có nhận xét nào: