Thứ Sáu, tháng 1 09, 2009

HỒi ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM

Chương 17

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ, ĐỂ TRỞ THÀNH
NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


Tết Đinh Tỵ 1977, anh em Tù K2 (Trại Cây Khế) được Ban chỉ huy Trại quan tâm săn sóc khá chu đáo. Nào là tổ chức thi đua làm Báo tường, tranh giải cờ tướng, đấu bóng chuyền giữa các Láng, và xem chiếu phim Liên sô ngoài trời.

Ngoài ra, mọi người còn phải học hát thuộc lòng các bài hát của Cách mạng. Giờ học hát, được thực hiện ngay sau buổi họp “phê và tự phê, xây dựng” hằng đêm. Các bài hát, do mấy anh bị bắt đưa ra Bắc từ hồi tháng 4 năm 1975, mới được chuyển về ở chung với chúng tôi, đọc cho chép và hướng dẫn tập. Có nhiều bài hát của Liên sô, Trung cộng, dịch lời sang tiếng Việt, nghe rất là ngô nghê chẳng ra làm sao cả, chẳng hạn : “Chúng ta là sắt thép…”. Hoặc những bài của các văn nô Cách mạng sáng tác, lời lẽ đầy sát khí : “Quét (giết) cho sạch nó đi…” Riêng bài “Tiến quân ca” (Quốc ca của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam) thì anh em không được học, theo sự giải thích của Cán bộ : “Tù cải tạo chưa xứng đáng được hát bài này!”

Chờ đón Xuân, còn có thêm một tin đồn rất là “hồ hởi”. Sẽ có đợt tha vào tháng 4, nhân kỷ niệm 2 năm ngày thống nhất đất nước, làm nhiều người mừng rỡ cho là chỉ dấu tốt. Ai nấy chuẩn bị đón Tết, với tinh thần “phấn khởi” hơn cái Tết tại Suối Máu năm 1976.

Trong dịp Tết, mọi người được nghỉ lao động 3 ngày. Nhưng ngày mồng 2, cả Cán bộ lẫn Cải tạo viên toàn Trại, phải “xuất hành” tham gia chương trình “cả nước trồng cây” hàng năm, để tỏ lòng nhớ ơn Bác.

Các món ăn Tết, cũng rất đặc biệt. Ngày mồng Một, cả bữa trưa lẫn bữa chiều đều được ăn 3 món :

1.- Thịt heo kho (mỗi người 3 mẩu bằng ngón tay cái); 2.- Thịt bò xào rau muống (cũng khoảng 5 cọng rau, và 3 mẩu thịt bò lẫn gân mỡ, mỏng bằng 4 đốt ngón tay); 3.- Trứng cá Mè Thác Bà kho (mỗi người khoảng miệng ca). Dĩ nhiên là ăn với bánh mì luộc, không có cơm. Hai ngày kế theo chỉ còn lại 2 món : cá Mè kho nhừ rục sền sệt như canh củ mỡ, ăn được cả xương mềm mục bùi bùi, và canh rau muống nấu với muối như ngày thường.

Cá Mè, do Cán bộ Hậu Cần Liên trại 1 đi mua từ hồ Thác Bà về. K2 của chúng tôi được chia 3 con, mình to bằng người ta, dài hơn 2 mét. Tôi chưa từng được thấy loại cá nước ngọt to như thế bao giờ. Nhà bếp phải lấy búa bửa củi tạ, mới chặt ra từng khúc nhỏ được.

Hai ngày trước Tết, mỗi Đội phải tăng cường cho Đội nhà bếp 5 người để tiếp tay gói bánh chưng. Theo dự trù, mỗi Tù sẽ được một chiếc bánh chưng nặng cỡ 1 kí lô sau khi luộc chín, và được lãnh vào buổi chiều tối ngày cuối năm.

Tôi được Đội cử tăng cường ngồi gói bánh chưng, nên 2 ngày giáp Tết không phải theo Đội ra ngoài lao động vất vả. Nhưng lưng vai cổ mỏi muốn gẫy, cơ bắp 2 chân đau tê cứng, vì phải ngồi lâu một chỗ làm liên tục không giờ giải lao. Có điều an ủi là mỗi bữa tăng cường làm tại nhà bếp, được bồi dưỡng thêm ba, bốn muổng tương hột kho, để ăn với bánh mì luộc, thay vì chỉ có vài cọng rau muống bung nước muối như mọi người.

Anh em tăng cường được chia thành 5 toán. Một toán chuyên lo chẻ lạt, rửa cắt lá giong cho hợp với khuôn. Một toán lo vo gạo nếp để trong từng thúng cho róc nước trước khi gói vào lá. Một toán cà rửa nấu đậu xanh, giã nhuyễn và nắm thành những nắm chặt tròn cỡ trái banh Tennis. Một toán cắt chia thịt heo thành những miếng dài cỡ 10 phân, dầy khoảng 1 phân. Toán sau cùng chuyên ngồi gói bánh theo khuôn gỗ, đã đóng sẵn cùng một cỡ 20/20 phân, cao 5 phân.
Ruột mỗi chiếc bánh chưng gồm : 2 bằng miệng bát đá gạo nếp vo rửa sạch cám (lộn gạo tẻ hơi nhiều), trộn chút đỉnh muối cho đậm đà, 1 nắm đậu xanh, và 1 miếng thịt heo có đủ nạc, mỡ, bì, ướp muối, hành củ thái mỏng, và hạt tiêu xay nhuyễn.

Có vài anh em Tù gói bánh rất thạo, không cần khuôn mà chiếc bánh rất vuông đủ 8 góc và chắc nịch. Còn phần lớn toàn là tay mơ vào học nghề, bánh gói không nèn được chặt và vuông vắn cho lắm, mặc dù đã có khuôn gỗ để trợ lực. Bánh chưng gói chặt tay luộc ra nền hơn bánh gói lỏng tay, và lúc chín vớt ra đem nén không bị phòøi ruột nơi các góc chiếc bánh.

Trong mấy ngày Tết, Trại mở máy thu thanh chuyền qua loa lớn cho cả trại Tù cùng nghe, những tin tức của đài phát thanh địa phương và Hànội.

Thư viện trong khu Tù ở cũng được mở cửa cả ngày, cho Tù vào đọc báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, và mượn sách, truyện xã hội chủ nghiã đọc tại chỗ hoặc đem về láng ở đọc dần. “Mục đích yêu cầu” của Trại mở Thư viện, để Tù có cơ hội tìm hiểu thêm về Cách mạng Xã hội Chủ nghiã tại Việt Nam, và tại các nước Cộng sản trên toàn Thế giới, mà noi gương “thi đua cải tạo” cho mau “tiến bộ”.

Anh Nguyễn văn Lương (Đại tá gốc Địa phương quân, trước 30-4-1975 làm Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị Quân lực Việt Nam Cộng hoà đặc trách Địa phương quân và Nghiã quân) được trại cử làm quản thủ Thư viện. Anh ấy là người bặt thiệp, luôn luôn hăng hái hướng dẫn anh em lựa sách, truyện mà anh ấy cho là hay, cũng như giới thiệu những loại tài liệu quan trọng cần nên đọc. Sau này anh Lương cũng phải chuyển đi Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, và trại Thanh Phong, Thanh Hoá cùng một lượt với Tôi. Vào cuối tháng 4 năm 1982, Tôi được chuyểàn về miền Nam Việt Nam, anh Lương được chuyển ra vùng Nam Hà thuộc châu thổ sông Hồng ở miền Bắc. Hình như anh ấy và gia đình, cũng đang định cư tỵ nạn tại California.

Tất cả những cuốn truyện để tại Thư viện trại Tù, đều có nội dung tuyên truyền, đề cao tinh thần chiến đấu và thi đua sản xuất của các nam nữ anh hùng vô sản. Qua những cốt truyện dàn dựng, cho phép nhận định rằng trình độ hiểu biết của quảng đại quần chúng tại miền Bắc xã hội chủ nghiã, sau hơn 20 năm sống dưới sự cai trị chuyên chính của Cộng Sản Việt Nam, rất là thấp kém lạc hậu. Chẳng hạn, một đoạn truyện rất phi lý như …“phi công Bắc Việt đậu sẵn phi cơ MIG trong các đám mây dầy đặc ở trên không, để phục kích chờ phi cơ B52 của Mỹ tới thả bom Bắc Việt là sông ra bắn hạ, địch không kịp trở tay”... Ấy thế mà Sĩ quan quân đội Cộng sản Bắc Việt tin là thật, trầm trồ ca ngợi đề cao một cách hãnh diện trước mặt anh em Tù.

Để kéo dài cái thi vị Tết trong suốt 3 ngày nghỉ, Tôi và 2 anh bạn nằm kế bên, đồng thoả thuận canh ty ăn chung bánh chưng. Mồng 1 ăn chiếc bánh của Tôi, mồng 2 và mồng 3 thì lần lượt ăn những chiếc bánh của các anh ấy.

Sau khi ăn Tết xong, mọi người lại tiếp tục hăng hái xả thân, hoàn tất “kế hoạch thi đua” Trại đã đề ra hồi trong năm. Với hy vọng, mình sẽ có tên trong số “cải tạo tiến bộ”, được thả về đoàn tụ với Vợ Con sớm hơn những người khác.

Đội chúng tôi không đi làm đập ở Hợp Tác Xã nữa, được giao trách nhiệm vét khu sình, úng nước phèn ngập ngang đầu gối chân, ở ráp ranh đất giữa K2 và K3. “Mục đích yêu cầu” là dọn sạch rác rến, gai trà, cỏ lác, lội đạp đất sình cho nhuyễn như bừa, rồi rải vôi bột khử phèn để sẵn sàng trồng lúa vụ “ba giăng” (3 con trăng tức là 3 tháng).

Làm tại đây, mọi người phải bỏ giầy, cởi quần dài, vắn tay áo lên đến nách, lội xuống làm việc cả tuần lễ mới xong. Thực hiện công tác này, nguy hiểm nhất là loại cỏ lác, lá dài 3 cạnh bén như lưỡi dao. Phải quấn vải bảo vệ bàn tay cẩn thận, mới nắm gốc chùm cỏ lác để nhổ lên, thế mà vải vẫn bị cỏ cứa rách làm đứt tay.

Nước đục ngầu chẳng trông thấy gì. Dưới sình đầy mẩu cây gẫy và tre gai nhặt không hết. Trong khi đạp bùn, cẩn thận đến đâu cũng không làm sao tránh khỏi, bị đâm thủng hoặc xước da bàn chân và các ngón chân.

Trên mặt nước lẫn trong đám cỏ lác, cơ man nào là muỗi vằn, to bằng đầu tăm xỉa răng, bâu đốt vào cổ vào mặt vào tay đau buốt đuổi không kịp.

Mỗi lần xuống sình làm xong bước lên bờ, chân tay anh nào cũng bị nhuộm một mầu vàng nâu nhạt, phải kỳ cọ rửa bằng sà bông mấy ngày mới hết. Da các đầu ngón tay cũng nhăn nheo thật lâu, mới phẳng trở lại bình thường.

Để khử phèn, chỉ việc đi dọc trên bờ, bốc vôi bột vung rải đều khắp mặt ruộng, không phải lội xuống. Độ khoảng mươi lăm phút sau khi rải vôi bột, thì eo ôi ! đủ thứ loại sinh vật trong ruộng chết nổi lên đầy mặt nước. Nào là cua, cá, rắn, ếch nhái, ễnh ương… Rất nhiều điả trâu, to dài cỡ ngón tay út, có con no căng máu, có con đói dẹp lép, trông thấy mà rùng mình nổi gai ốc.

Sau khi đạp đất bùn nhuyễn, phạt sạch cỏ bờ chung quanh, vãi vôi bột khử phèn xong, khu sình biến thành mảnh ruộng vuông vức, thật lớn, trông rất đẹp mắt.

Hoàn tất công tác này, Đội chúng tôi được đưa đi tăng cường hạ gỗ bồ đề, trong khu rừng trên đỉnh núi cao, cách Bệnh xá Liên trại chừng 1 cây số, khiêng ra thả xuống bên đường cái.

“Mục đích yêu cầu” của công tác này là chặt tiả những cây đủ “tiêu chuẩn” ấn định, gốc phải to cỡ một người ôm không hết. Nhiều Đội khác đã làm ở đây, từ khi mới bắt đầu đợt thi đua hồi đầu năm Dương lịch, nên những cây gần ngoài bià rừng không còn. Chúng tôi phải đi theo triền núi vào sâu cả trăm mét, mới có cây để lựa đốn hạ khiêng ra nộp.

Trong khoảng 200 mét từ bià rừng ra đến đỉnh thả xuống đường, mọi cây nhỏ và bụi dại đều đã được phát dọn bằng địa, chỉ còn cỏ tranh khô héo dưới ánh mặt trời trưa nóng. Không khí bị đốt hiện ra trước mắt bàng bạc loang loáng, tưởng như mình đang bị bao phủ bởi một bầu thủy tinh.
Quản giáo Đội chúng tôi quy định, anh em trong Đội tự bắt bồ thành từng toán 5 người để cộng tác làm việc. Mỗi ngày, mỗi toán phải đốn hạ 1 cây, chặt bỏ cành và ngọn, rồi khiêng ra khỏi rừng, thả theo triền núi xuống bên đường cái lớn. Khi nào hoàn tất, tức là “chỉ tiêu lao động” trong ngày đã đạt, được phép tự động dắt nhau về Trại nghỉ. Nghe tả sơ như vậy ai cũng tưởng là đơn giản dễ ăn lắm. Nhưng khi bắt tay vào việc, mới thấy công việc vất vả, nguy hiểm gấp đôi việc đi lấy giang hồi mùa Đông vừa qua.

Chung quanh gốc bồ đề toàn là dây leo, cây nhỏ, bụi gai dại chằng chịt, phải phát quang cả chục mét mới vào được tới sát gốc. Khi hạ cây phải dùng rìu chặt mở 2 miệng sâu vào thân cây, ở 2 bên đối ngược nhau. Một miệng cao một miệng thấp, cây sẽ đổ xuống phiá bên có miệng thấp.

Trước tiên, chặt mở miệng thấp rộng 45 độ góc, ở bên phiá mình muốn cho cây đổ xuống. Mặt đáy miệng sâu vào khoảng nửa bề dầy của thân cây, cao hơn mặt đất khoảng 1 mét. Sau đó, mở miệng cao ở bên phiá đối ngược với miệng thấp đã mở. Miệng cũng rộng 45 độ góc, mặt đáy sâu vào khoảng 1 phần 3 thân cây, và phải cao ngang với đỉnh của miệng thấp đã mở bên phiá đối nghịch trên thân cây, thì cây mới không đổ ngược lại.

Trong lúc chặt mở miệng cao vào thân cây, tất cả mọi người phải dang xa cách gốc cây ít nhất là 50 mét. Chỉ còn một mình người phụ trách chặt, đứng trên giàn bắc bên gốc cây. Khi chặt đẽo mở miệng cao sâu vào chừng được 1 phần 4 thân cây, phải hô to báo động cho mọi người đang làm việc chung quanh, biết là cây sắp đổ về hướng nào. Người đang chặt cũng phải sẵn sàng nhẩy ra phiá sau khỏi giàn, kịp thời đúng lúc trước khi cây đổ.

Hạ cây đổ xuống rồi, anh em trong Tổ 5 người chia nhau chặt các cành và khúc ngọn khỏi thân cây. Cây thường dài cỡ 10 mét và khá nặng, 5 người khiêng không nổi. Phải phối hợp 2 Tổ tiếp tay nhau khiêng đổi công, tức là cả 2 Tổ gồm 10 người xúm nhau khênh từng cây một, ra đỉnh sau cùng của rừng để thả cho trôi xuống đường cái.

Đi từ sáng sớm khi trời còn sương mù lạnh căm căm, cỏ ướt sũng sương đêm. Hì hục thay nhau chặt đến trưa, mặt trời lên đến đỉnh đầu, mới hạ xong cây và chặt trụi cành để sẵn sàng khiêng đi. Vừa mệt vừa đói, mọi người ngồi nghỉ ăn bữa trưa. Xong suôi, mới tính tới công việc khiêng nộp cho nhanh chóng trọn vẹn, để về trại được sớm sủa.

Phải mất cỡ một tiếng đồng hồ, 10 người vừa khiêng vừa nghỉ lấy sức, mới khệ nệ men theo triền núi dài khoảng 300 mét, đem được cây gỗ ra tới đỉnh sau cùng để thả xuống đường.

Lúc cả 2 cây gỗ của 2 Tổ, được thả hết xuống đường xong xuôi, đồng hồ đeo tay của Cán bộ chỉ đúng 4 giờ chiều. Trời đang còn nắng trang trang gay gắt, không một hột gió, mệt vã mồ hôi, khát nước, miệng cổ khô như rang. Bình đựng nước mỗi người mang theo bên mình, cạn queo không còn một hột, thật cơ khổ cực cùng không sao tả siết. Mọi người vẫn phải cố gắng quay trở lại rừng, thu nhặt rìu, rựa, túi mang đồ dùng riêng để trở ra xuống núi về trại.

Trong lúc đi trở lại rừng, mắt Tôi có lúc hoa lên nổ tia đom đóm, đầu nóng bừng bừng, hai tai reo u, u, chân bước đi lảo đảo như muốn khuỵu xuống. Lo lắng suy nghĩ mung lung, không biết phải làm gì để tự cứu mình thoát khỏi bị ngất sỉu vì thiếu nước. May nhờ số chưa tới lúc, nên Trời đã khiến cho Tôi chợt nhớ ra cách tự cứu mình khỏi khát tạm, học được từ hồi còn nhỏ tham gia đoàn Hướng Đạo sinh là, tiểu ra mà uống.

Tôi vội lấy chiếc túi nylon nhỏ đựng đường thẻ, đã ngậm hết, để tiểu vào đó. Nước tiểu cũng chỉ được dăm giọt vàng khè. Đưa lên miệng hút cho hết và chép chép cho nước miếng tiết ra phụ hoạ cho đỡ khô miệng khô cổ. Quả là công hiệu, Tôi thấy dễ chịu hơn và lết được đến bià rừng, nơi đang để rìu, rựa, và các túi xách của chúng tôi.

Hỏi bạn bè không ai còn nước. Đảo mắt nhìn quanh, may sao thấy một cây chuối nhỏ cao hơn 1 mét, mọc sau một bụi xim, cách chỗ chúng tôi đứng chừng 5 mét. Quá đỗi mừng rỡ, Tôi cầm rựa tiến tới chặt phăng cây chuối sát tận mặt đất, chặt bỏ ngọn, lột các lớp bẹ ngoài để lấy nõn non bên trong cùng, cắn từng miếng nhai lấy nước nuốt từ từ. Nhờ thế mà tỉnh táo trở lại, rảo bước ra được khỏi rừng, xuống núi dốc thẳng đứng khoảng 80 mét mới tới đường. Ra về đến ngang Bệnh xá, cầu cứu mấy anh đứng bên bờ rào xin được nước, uống lấy uống để muốn bể bụng mới đã cơn khát.

Ngày hôm sau, chúng tôi cẩn thận hơn, ai cũng mang theo 2, 3 Gô nước cho chắc ăn. Nhưng tai họa lại xẩy ra trong trường hợp khác, đối với các bạn ở Đội làm việc bên đống gỗ ở cạnh đường. Chuyện xẩy ra vào lúc gần tàn giờ lao động chiều.

Sau khi 2 Tổ của chúng tôi thả xong cây bồ đề thứ 2 xuống đường. Anh em đang ngồi nghỉ ít phút, trước khi quay trở lại rừng thu nhặt rìu và túi đựng đồ riêng, để chuẩn bị xuống núi ra về. Bỗng nghe ở phiá dưới đường có tiếng người la, lẫn với tiếng lăn rầm rầm của đống gỗ bên đường đang đổ ra bừa bãi. Nhìn xuống, thấy có một anh nằm dài bất tỉnh trên mặt đất, mấy người khác xúm xít chung quanh hối nhau khênh đi Bệnh xá gấp.

Lúc xuống đến đường hỏi thăm anh em, biết được người bị nạn là Đại tá Bùi Dzinh, hồi đệ nhất Cộng hoà tại miền Nam đã có lần được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho làm Tư lệnh Sư đoàn trong một thời gian. Anh Dzinh là người luôn luôn có tinh thần lao động “cải tạo năng nổ”. Kể từ ngày mới trình diện đi tập trung tại Đại học xá Minh Mạng, bên Chợ Lớn, Saigon, cũng như khi tới Long Giao, anh ấy luôn luôn “tự giác” làm những việc mà anh em ngại khó. Hình như muốn tỏ cho Cán bộ Cách mạng thấy, anh ấy “năng nổ muốn cải tạo mau tiến bộ” hơn người khác.

Tai nạn đã làm anh ấy mê man bất tỉnh nhiều ngày liền. Anh em Tù, thân hay sơ, ai cũng thương cảm. Mỗi người theo cách riêng của mình, đều hết lòng cầu xin Trời Phật cho anh ấy qua khỏi tử nạn. Một tuần lễ sau, chúng tôi mừng rỡ được tin anh ấy đã hồi tỉnh. Anh ấy được nằm điều trị tại Bệnh xá Liên trại, thêm một thời gian cũng cả tháng sau, mới phải trở lại K2 tham gia lao động nhẹ.

Ngay đêm hôm chứng kiến anh Dzinh gặp tai nạn lao động, Tôi bị lên cơn sốt. Trước tiên rét run lạnh thấu xương. Sau đó chuyển sang nóng, thân nhiệt lên cao tới khoảng hơn 40 độ Centigrade. Miệng khô, hơi thở nóng hừng hực, đầu nhức như búa bổ, các khớp xương đau nhức chịu không nổi. Anh bạn nằm cạnh, phải cõng Tôi xuống phòng Y tế xin cấp cứu.

Cán bộ y tế tới khám. Tôi nghĩ rằng mình bị sốt rét rừng hành. Hồi nhỏ lúc mới 12 tuổi sau khi đi tham dự trại Hè Hướng đạo ở núi Mẫu Sơn, châu Lộc Bình thuộc tỉnh Lạng Sơn, ngay nơi có cột mốc định ranh giới Bắc Việt và Trung Hoa, Tôi cũng đã bị sốt rét rừng hành phải chữa trị bằng thuốc Quinine cả năm mới hết. Những triệu chứng bệnh trạng hôm nay, thấy cũng tương tự như vậy, nên xin Cán bộ cho phép lấy thuốc Chloroquine riêng của Tôi, do Trại giữ giùm để uống.
Tôi bị sốt chưa đến nỗi ngất sỉu hay chẩy máu mũi. Sau khi uống thuốc được chừng nửa tiếng đồng hồ, cơn nóng cũng giảm dần. Nên Cán bộ Y tế quyết định không cần di tản ra Bệnh xá Liên trại. Kể từ hôm sau, mỗi ngày Tôi đều bị lên một cơn sốt tương tự. Cán bộ Y tế cho được nghỉ lao động, nằm tại Láng trị bệnh bằng thuốc riêng của mình. Trại chẳng có thuốc gì để cấp, ngoài những bát nước thuốc Nam, nấu bằng các loại lá mót nhặt ở rừng về, và những viên Xuyên Tâm Liên trị Bá Bệnh.

Tôi mới được nghỉ lao động trị bệnh chừng 3, 4 ngày, đã có vài anh trong Đội thắc mắc. Nhất là anh Đội trưởng, tối nào trong giờ “phê và tự phê, xây dựng”, cũng nhắc Tôi cố gắng “khắc phục” hôm sau đi lao động với anh em, để bảo đảm cho Đội có nhân số lao động cao trong đợt thi đua. Tôi trình bầy, hàng đêm vẫn bị cơn sốt rét rồi nóng hành hạ, các khớp xương đau nhức di chuyển rất khó khăn đau đớn. Ban ngày khi ra ngoài gặp ánh sáng, mắt bị chói buốt làm nhức đầu không chịu nổi, nên chưa thể đi lao động được, xin anh em “thông cảm nâng đỡ tinh thần” cho Tôi.
Quản giáo Đội đã, ít nhất 2 lần, lén rình để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của Tôi. Một lần trong ban đêm gặp ngay lúc Tôi đang bị cơn sốt hành hạ. Một lần vào khoảng 9 giờ sáng, đúng vào thời gian các bệnh nhân từ Láng ở xuống phòng Y tế để được chẩn bệnh.

Từ láng ở đi xuống, Tôi phải lần mò đi từng bậc thang đất một, cũng như phải ngồi bệt xuống đất nghỉ nhiều lần. Mắt nhức nhối mở hi hí, bước hụt chân ngã lăn tuột cả 5, 6 bậc thang, tới sát hè Hội trường mới khựng lại. Lúc thấy có người nắm tay đỡ Tôi đứng dậy, ngẩng mặt nhìn lên để cám ơn. Tôi mới giật mình nhận ra người tiếp giúp chính là Quản giáo Đội của Tôi. Lúc này Đội đang lao động nơi hiện trường ngoài trại, tại sao ông ấy lại có mặt tại đây?

Tôi bị bệnh như vậy được chừng 1 tuần lễ. Bỗng một buổi chiều vào lúc nhá nhem tối, trên con đường từ K3 đi ngang K2 của chúng tôi, rần rần có 3, 4 toán người khênh cáng đi vội vã ra phiá đường cái. Một số anh em hiếu kỳ, giả bộ mò xuống suối tắm rửa để dò tìm tin tức. Khi trở lên cho biết, có 3, 4 anh trong K3 bị sốt nóng bất tỉnh nhân sự, phải đưa ra Bệnh xá Liên trại cấp cứu.
Sáng hôm sau có tin vài người đã chết không cứu được. Số còn lại thoát chết, đang nằm tại Bệnh xá tiếp tục điều trị. Người ta cho biết là sốt vàng da, bị nhiễm trùng vì lao động tại khu sình, nơi mà Đội chúng tôi phải dọn vét, rải vôi bột khử phèn trong mươi ngày trước.

Đến giờ điểm danh vào Láng đi ngủ, không thấy anh Đội trưởng. Tôi hỏi nhỏ anh nằm bên mới biết, hồi chiều đi làm về anh Đội trưởng bị sốt cao độ, chẩy máu mũi, xuống phòng Y tế khám, và đã được di tản ra Bệnh xá Liên trại cùng lúc với mấy anh khác, cũng sốt cao độ mê man bất tỉnh. Đội trưởng chúng tôi, anh Lê minh Luân, Đại tá thuộc Quân chủng hào hoa phong nhã trong Quân lực VNCH, lúc nào cũng bay bổng theo mây gió, được nằm điều trị ở Bệnh xá Liên trại, khoảng một tuần lễ sau thì bình phục.

Một buổi chiều đi lao động về, anh em cho biết là thấy anh ấy ngồi tắm suối, dơ tay vẫy chào anh em lúc đi ngang rất vui vẻ. Nhưng sáng hôm sau, khi Tôi xuống phòng Y tế khám bệnh, anh bạn phụ tá Cán bộ Y tế cho biết, anh Luân đã chết hồi đêm qua. Mới lúc chiều khoẻ khoắn ra tắm suối vui vẻ là thế, tự nhiên đến đêm bệnh biến chứng ngộp thở cứu không được.

Thế mới biết con người ta, sống chết đều do mệnh Trời định từ trước, muốn cũng không được, không muốn cũng không được. Tôi là người yếu sức khoẻ nhất trong Đội, bị bệnh sốt vàng da vật đầu tiên đau đớn gần chết, ai cũng cho là giả vờ trốn lao động. Nhưng mệnh Trời đã định, nên thoát khỏi chẳng sao.


ĐỊNH MỆNH DO TRỜI

Sa cơ nín thở qua sông,
Lo chi xoáy cuộn, sóng dòng nổi trôi.
Định tâm giữ vững đạo Trời,
Sống tròn Nhân Nghiã, bĩ thời sẽ qua.
Bao năm mặc áo Cộng hoà,
Dấn thân bảo vệ Tự do, Nhân quyền.
Thế, Thời, quốc nạn đảo điên,
Có đâu thối chí lãng quên lời thề.
Kiên trì nhịn nhục vì quê,
Đợi ngày thoát hạn sẽ về phục hưng.
Tàn cơn giông tố bão bùng,
Trắng đen phân tỏ Anh hùng Tiểu nhân.

K2 (Trại Cây Khế), Liên Trại 1, Mùa Hè 1977

Không có nhận xét nào: