Thứ Sáu, tháng 1 09, 2009

HỒi ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM


NGUYỄN-HUY HÙNG

Cựu Ðại Tá Quân lực Việt Nam Cộng hoà.


TIỂU SỬ TÁC GIẢ

NGUYỄN-HUY HÙNG
-Phật tử, Pháp danh KHIẾT CHÂU,
-Sanh vào ngày Saint Patrick's Day, cuối thập niên 20, Thế kỷ 20, tại Thị xã LẠNG SƠN, Bắc phần Việt Nam. (nơi có di tích lịch sử ẢI NAM QUAN).
-1945, gia nhập Phục Quốc Quân hoạt động bí mật.
-5 tháng 7 năm 1947, gia nhập Vệ binh Bắc Kỳ.
-1 tháng 6 năm 1949, tốt nghiệp Thiếu úy, Khoá 1 (Khoá Bảo Ðại) Trường Võ bị Quốc Gia Việt Nam. Bổ nhiệm về Tiểu đoàn 2 VN cùng ngày, tại HÀNỘI.
-1950, du học bổ túc Sĩ quan chuyên nghiệp tại Pháp.
-1956, Thiếu tá, du học Truyền Tin tại Hoa Kỳ.
-1957, Giám đốc Trường Truyền Tin, Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức.
-1961, Chỉ huy phó Viễn Thông, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực việt Nam Cộng Hoà.
-1965, Trung tá, Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Trung ương Ðịa phương quân và Nghiã quân QLVNCH.
-1970, Ðại tá Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị QLVNCH, kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến.
-1975, Tù nhân chính trị trong các Trại tập trung của Cộng sản Việt Nam, 13 năm (từ sau 30 tháng 4 năm 1975 cho tới 13 tháng 2 năm 1988).
-Tháng 8 năm 1992, định cư tỵ nạn Cộng sản tại Liên Bang Hoa Kỳ.

LỜI MỞ ÐẦU.

Thời gian tiếp tục quay, những dấu vết lịch sử ghi trên không gian cũng phai mờ dần theo luật biến hoá sinh diệt của Tạo hoá, nhưng không bao giờ bị xoá mờ trong bộ não của con người, cho đến khi phổi ngưng thở, tim ngừng đập, mắt nhắm, tay xuôi trở về với cát bụi.

Trong suốt 13 năm ở trong các trại tập trung, bạn bè đồng tù, trong đó có cả các vị Tuyên úy Quân đội như Linh mục, Mục sư, Thượng tọa, Ðại đức, đều yêu cầu Tôi, sau khi ra tù hãy ghi lại hết sự thực gian khổ nhục nhằn, mà Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã dành cho chúng tôi, những người đã cả gan cằm súng chiến đấu chống lại Cộng sản quốc tế mà CSVN làm tay sai. Ðể cho Nhân dân Thế giới và đồng bào Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng thấy được mặt thật quỷ quyệt, tàn bạo vô nhân đạo, giả nhân nghiã của CSVN, đối với những ai không chịu theo đường lối chính trị chuyên chính vô sản bạo tàn của bọn chúng.

Từ khi được cùng gia đình tới Hoa Kỳ, định cư theo diện H.O. (Humanitarian Operation) tỵ nạn Cộng sản đến nay cũng được 8 năm, rất nhiều các bạn trẻ con các gia đình di tản trước 30-4-1975, hoặc được sanh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ sau 30-4-1975, không biết gì về biến cố đen tối này của dân tộc Việt Nam, đã yêu cầu Tôi kể cho họ nghe, rồi lại yêu cầu ghi chép để phổ biến rộng rãi cho mọi người, cùng thấy được mặt thật của CSVN mà đề phòng khỏi bị cám dỗ lôi cuốn.

Tôi suy nghĩ đắn đo mãi mà chưa muốn thực hiện. Không phải vì Tôi sợ CSVN hay tay sai của họ có mặt khắp nơi trả thù, mà vì muốn chờ xem những lời cam kết đổi mới của CSVN, sau khi cái nôi CS quốc tế là Liên sô tan rã hoàn toàn, có sẽ đem lại được gì tốt hơn cho Dân tộc Việt Nam như CSVN đã rêu rao không?

Nhưng cho tới nay, sau 25 năm CSVN độc quyền “một mình một chợ múa gậy vườn hoang”, không ai cản trở, thế mà cái Chế độ Xã hội Chủ nghiã thường được CSVN khoa trương là ngàn lần tốt đẹp hơn Chủ nghĩa Quốc gia Tư bản, đã không đem ấm no hạnh phúc đến cho Dân tộc Việt Nam. Trái lại, Quốc gia Việt Nam vẫn trong tình trạng lạc hậu chậm phát triển, bị Quốc tế xếp vào hàng các nước nghèo đói nhất Thế giới. Dân chúng không có bất cứ một tự do căn bản nào của con người trong một nước có chủ quyền độc lập, còn bị bóc lột sức lao động một cách tinh vi, tàn bạo, dã man hơn cả các thời Phong kiến, Thực dân xa xưa bóc lột nông nô. Riêng chỉ có các Lãnh tụ và Ðảng viên của Ðảng CSVN, tùy theo thứ vị quyền lực đang nắm giữ, trở nên giầu có ăn tiêu phung phí xa hoa, chẳng khác nào các nhà Ðại Tư Bản trong Thế giới Tự do, vẫn từng bị CSVN lên án là bọn Ðế quốc Tư bản bóc lột giới lao động.

Trắng trợn hơn nữa, CSVN còn ngoan cố đánh bóng và thần thánh hoá, những việc làm tội lỗi của chúng đối với Dân tộc suốt hơn nửa Thế kỷ 20 vừa qua, và gán cho những người chống đối Cộng sản là phản quốc, bán nước, làm nô lệ cho ngoại Bang để cầu vinh. Trong khi những bí mật chính trị trong thời gian qua vừa được tiết lộ, đã chứng minh rõ ràng Hồ Chí Minh và bọn CSVN mới chính là nhóm tay sai ngoại bang, tàn phá quê hương, giết hại đồng bào Việt Nam, để chiếm độc quyền cai trị Dân tộc theo Chế độ Cộng sản chuyên chính của Liên sô nay đã tan rã.

Chế độ Cộng sản chuyên chính độc tài, độc đảng của Liên sô đã bị chính nhân dân Nga hủy diệt, vào những năm cuối thập niên 1980 đầu thập niên 1990, để tái lập chế độ chính trị quốc gia theo mô thức Cộng Hoà đa đảng của Liên Bang Hoa Kỳ, với cái tên mới “Liên Bang Nga”.

Một số đảng viên kỳ cựu của Ðảng CSVN, theo Hồ chí Minh từ thuở ban đầu, nay thấy được những sai trái tội lỗi của Ðảng, đã phản tỉnh can đảm lên tiếng phê bình xây dựng, theo tinh thần Dân chủ mà Ðảng rêu rao. Lập tức bị Ðảng thi hành kỷ luật khai trừ, bắt bớ hạch sách, cô lập theo dõi, làm khó dễ đủ đường. Nhiều người đã bị kết án tù hoặc bị giam cầm cải tạo vô thời hạn.

Vì thế, Tôi quyết định không chờ đợi nữa, phải bắt tay vào viết ngay “HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM”, để đáp ứng lời yêu cầu của những người muốn biết mặt thật của CSVN, nhưng chưa có may mắn sống dưới sự cai trị của Bạo quyền CSVN.

Mặc dù biết mình không có khả năng của một văn sĩ hay thi sĩ. Nhưng là một nhân chứng của dòng lịch sử Việt Nam, trong suốt ba phần tư sau của Thế kỷ 20, đã cùng đồng bào của mình trải qua bao sóng gió phũ phàng của chiến tranh giành độc lập, tranh chấp giữa hai ý thức hệ Cộng sản và Nhân bản Quốc gia, ngay trên đất nước. Tôi vẫn thấy cần phải cố gắng hết sức mình, ghi lại một cách chân tình, mộc mạc, trung thực, những gì Tôi đã chứng kiến, bản thân đã phải chịu đựng. Ðể đóng góp vào kho tài liệu sự kiện đã xẩy ra tại Việt Nam trong Hậu bán Thế kỷ 20, cho các thế hệ sau Tôi tham khảo, biết được sự thật không bị bóp méo như các dữ kiện của bọn CSVN đã cố tình tạo ra và phổ biến, với dụng ý giành phần phải cho chúng trước sự phán xét của Dân tộc Việt Nam và dư luận Thế giới.

Hy vọng lòng nhiệt thành của Tôi, sẽ được chư độc giả bỏ qua cho những thiếu sót về sưu tập tin tức tài liệu, cũng như kỹ thuật cú pháp hành văn, thơ.

Viết “HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM”, Tôi cũng muốn dành riêng để tặng, và tỏ lòng biết ơn sâu xa của Tôi đối với Vợ và các Con nay đã là Công dân Hoa Kỳ, về những hy sinh lớn lao cao quý của họ. Trong suốt thời gian mười mấy năm trời sau 30-4-1975, Vợ Con đã phải kiên nhẫn chịu đựng mọi cay đắng nhục nhằn, sống dưới sự cai trị của Bạo quyền Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, để hỗ trợ cả tinh thần lẫn vật chất cho Tôi sống còn, đến khi được tha ra khỏi Trại tập trung của CSVN. Lại còn phải lo phần tài chánh cần thiết, để hoàn tất được mọi thủ tục xin đi định cư tỵ nạn Cộng sản trên đất nước Hoa Kỳ, đầy tình người và giầu lòng bác ái này.

“HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM” cũng được viết ra để tỏ lòng biết ơn sâu xa của Gia đình chúng tôi, đến Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ, cùng tất cả các Quốc gia có chân trong Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, đã tham gia áp lực Liên sô, Trung cộng, buộc tay sai của họ là CSVN phải thả chúng tôi. Những người Việt Nam đã liên tục chiến đấu mấy chục năm trời, ngăn cản làn sóng xâm lăng bành trướng của Cộng sản Quốc tế trên đất nước Việt Nam thân yêu của mình, nên bị CSVN giam cầm đầy đọa, tiêu diệt lần mòn theo Chính sách Lao động cải tạo tư tưởng do Hồ chí Minh nghĩ ra, trăng trối lại cho bè lũ đàn em thi hành.

Thoạt nghe “Lao động cải tạo tư tưởng”, ai cũng cho là một chính sách vô cùng nhân đạo. Nhưng có là nạn nhân của chính sách, mới thấy nó độc ác tàn bạo vô nhân đạo gấp trăm ngàn lần chính sách xử bắn hay xử chém của Phong kiến, Thực dân cũ. Vì phương châm thực hiện của nó theo lời chỉ dạy của Hồ Chí Minh là : “-Ðừng giết chúng nó, hãy dùng chúng nó làm công cụ sản xuất cho Xã hội, bắt chúng nó làm cho chúng nó ăn, đầy đọa cho chúng nó chết lần chết mòn vì kiệt sức nơi rừng thiêng nước độc, thâm sơn cùng cốc, thì ai mà biết được.”

NGUYỄN HUY HÙNG.

Quận Orange, Nam California, Ngày 30-4-2000.



Chương 1

30 THÁNG 4 NĂM 1975, NGÀY QUỐC HẬN
CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.


Vì áp lực của Hoa Kỳ cắt viện trợ nên ngày 21-4-1975, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu phải từ chức, nhường cho Phó Tổng thống Trần văn Hương lên thay. Trước khi bàn giao, Tổng Thống Thiệu đã xuất hiện trên màn ảnh của đài vô tuyến truyền hình Saigon, nói chuyện để giã biệt quốc dân đồng bào miền Nam Việt Nam, với những lời nghẹn ngào phân bua là bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội.

Ðến lượt tân Tổng Thống Hương cầm quyền, vẫn tiếp tục bị áp lực, nên ngày 25-4-1975, cũng lại phải tuyên bố từ chức, và yêu cầu Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà đề cử người thay thế.

Ngày 27-4-1975, một số Dân cử trong Quốc hội chưa di tản, họp nhau lại thảo luận sôi nổi đến tối, và đi đến quyết định cuối cùng là ủy quyền cho Ðại tướng Dương văn Minh làm Tổng thống, để tiếp xúc với Việt cộng tìm giải pháp chấm dứt cuộc chiến.

Sáng sớm ngày 28-4-1975, ký giả Huy Vân (bút hiệu của Trung úy Nguyễn Trung Hoà, đã chết trong trại tập trung Tân Lập, Vĩnh Phú, Bắc Việt, năm 1978) Chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, đã trình cho Tôi (Chủ nhiệm) biết là, có nguồn tin chính xác từ giới thân cận Tướng Dương văn Minh cho hay, hôm nay ông Minh sẽ dùng trực thăng đi thị sát mặt trận Long Khánh, để bí mật tiếp xúc với người đại diện của Cộng sản Bắc Việt.

Buổi chiều cùng ngày 28-4-1975, ông Minh làm lễ nhậm chức, chỉ có mặt 2 vị Ðại sứ Hoa Kỳ và Pháp tham dự. Tối 28-4-1975 ông Minh tuyên cáo trên làn sóng đài phát thanh Saigon, yêu cầu Ðại sứ Hoa Kỳ rút hết nhân viên D.A.O. ra khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, để ông ta dễ thương thuyết với Cộng sản về giải pháp đình chiến.

Tướng Vĩnh Lộc, tân Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, do Tổng thống Minh bổ nhiệm, xuất hiện trên màn ảnh của đài vô tuyền truyền hình Saigon, kêu gọi quân sĩ vững tâm duy trì kỷ luật tiếp tục chiến đấu, sau khi đã bầy tỏ những lời khinh chê các Tướng, Tá, hèn nhát bỏ quân đào ngũ trốn chạy như chuột.

Ngày 29-4-1975, trực thăng của Hoa Kỳ từ Hạm đội 7 đang hoạt động tại ngoài khơi Thái Bình Dương, bắt đầu dồn dập liên tục bay vào Saigon bốc người di tản, và chấm dứt vào tảng sáng 30-4-1975.

Saigon trong những ngày cuối tháng 4-1975 được đặt trong tình trạng giới nghiêm, tất cả các báo ngưng hoạt động, riêng chỉ có Nhật báo Tiền Tuyến vẫn phát hành hàng ngày, để gửi qua Cơ quan chuyển vận thuộc hệ thống Tiếp vận Quân đội chuyển đến các đơn vị. Việc này thực hiện được là nhờ Trung tướng Trần văn Trung Tổng Cục Trưởng Chiến tranh Chính trị, chỉ thị Cục Tâm lý chiến in hàng đêm, và chuyển sang Tiếp vận gửi đi. Ðại tá Phan Trọng Thiện, Cục Phó Cục Tâm Lý Chiến được lệnh tiếp xúc với Tôi làm việc này. Sau 30 tháng 4, Ðại tá Thiện cũng phải đi tập trung cải tạo. Chúng tôi cùng phải chuyển qua nhiều trại. Ðến năm 1982 đang ở trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hoá (nơi có trại Thanh Cầm mà CSVN đã dự tính đem tất cả vợ con tù cải tạo, đến cùng chồng định cư vĩnh viễn ở nơi vùng rừng núi Trường Sơn đó), thì Tôi được chuyển về trại Z30C, Hàm Tân, Thuận Hải, Nam Việt, còn anh Thiện bị chuyển ra vùng Nam Hà, Bắc Việt. Sau khi định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ, Tôi có dịp gặp lại anh Thiện, trong một kỳ họp mặt anh em Hội ái hữu Chiến tranh Chính trị Hải ngoại tại quận Orange, Nam California, nên biết được anh Thiện định cư tại Connecticut, Hoa Kỳ.

Chiều ngày 29-4-1975, đường phố Saigon bỗng dưng nhộn nhịp như vỡ chợ, mặc dù vẫn còn lệnh giới nghiêm. Xe dân sự, xe quân sự đua nhau chạy ngược chạy xuôi vội vã. Người ta đi tìm đến các điểm tập trung theo giấy thông hành di tản riêng quy định từ trước, để chờ trực thăng Mỹ bốc đi. Ðầy nghẹt xe cộ và người bu đông trước Toà Ðại sứ Mỹ ở đường Thống Nhất, và tại Bến Bạch Ðằng cuối đường Tự Do, khu gần Bộ Tư lệnh Hải Quân QLVNCH.

Khu Thị Nghè gần Tân Cảng, đồ hộp thực phẩm đủ loại lấy ở các kho của Mỹ đổ bán đầy đường, rẻ mạt, người ta tranh nhau mua về tích trữ. Những khu có các chung cư người Hoa Kỳ di tản, người ta ùn ùn kéo nhau vào hôi đồ đạc tự do, trước sự chứng kiến của Cảnh sát.

Khoảng 10 giờ ngày 30-4-1975, Dương văn Minh tuyên cáo qua làn sóng Ðài phát thanh Saigon, ra lệnh cho binh sĩ buông súng thôi không chiến đấu nữa, đợi Cách mạng vào bàn giao. Tôi rời Toà báo lái xe chạy sang Tổng cục, không thấy Trung tướng Trung, theo lời nhân viên văn phòng cho biết, Trung tướng được lệnh gọi sang họp bên dinh Tổng Thống.

Tôi lên xe chạy về đón vợ con tìm đường thoát xuống miền Tây, hoặc tìm tầu di tản. Bến Khánh Hội, bến Tân Cảng, không còn tầu. Ðường qua cầu Bến Lức đi miền Tây, đầy nghẹt xe hơi đủ loại đậu nối đuôi nhau dài hàng cây số. Ðường đi Vũng Tầu còn giao tranh nguy hiểm không đi được. Vô kế khả thi, Tôi đành chở vợ con vào trú tạm nhà người quen ở ngay khu bến xe Lục tỉnh, gần Viện Hoá Ðạo, sẵn sàng đón nhận tất cả những điều tồi tệ nhất sẽ đến với mình và vợ con mình.

Khoảng 4 giờ chiều 30-4-1975, không biết từ đâu về, bao nhiêu là đàn ông lực lưỡng nhào lên ngồi đầy trên tất cả các chiếc xe đò đi miền Tây, miền Ðông, nằm ụ tại đó từ những ngày bắt đầu giới nghiêm đến giờ, và yêu cầu các chủ xe chở họ đi miền Tây hoặc miền Ðông. Trong xe hết ghế, người ta ngồi đầy cả trên nóc xe. Hỏi ra mới biết là quân nhân thuộc Trung đoàn đóng ở cầu Bến Lức, đường đi Long An. Sau khi nghe lệnh Dương văn Minh yêu cầu buông súng đợi bàn giao cho Cộng sản, họ đã vứt bỏ quân trang vũ khí xuống sông, rời đơn vị đi tìm đường về quê quán với gia đình, chớ không đợi bàn giao cho Cộng sản như lệnh của ông Tướng phản bội chiến hữu, phản bội nhân dân miền Nam.

Cũng trong lúc đó, từ các ngõ hẻm, một số dân đi theo mấy anh Nhân dân Tự vệ mặc quần áo đen, cột mảnh băng vải đỏ nơi tay áo, lăm lăm cây súng, ùn ùn kéo nhau ra, trèo đại lên các xe GMC quân đội bỏ bên đường, lái đi hôi của tại các Kho hàng của Quân tiếp vụ QLVNCH ở phiá sau Chợ Cá Trần quốc Toản.

Một nhóm khác, gồm đôi ba Nhân dân tự vệ mặc quần áo đen, mang súng của VNCH cấp, cùng mươi lăm người dân lao động khác đeo nơi tay áo trái băng vải đỏ (những người Cách mạng 30 tháng 4), hô hoán kéo nhau ra Bình bông ngã 7, căng biểu ngữ và cờ nửa xanh nửa đỏ, có ngôi sao vàng ở giữa (cờ quân giải phóng miền Nam), đợi đón mừng giải phóng quân vào Thành phố.

Khoảng 5 giờ thì có 1 đoàn xe Molotova, chở mỗi xe chừng dăm bẩy anh Giải phóng quân, mặt non choẹt, xanh lét, búng ra sữa, dáng sợ sệt, ngồi bệt dưới sàn xe, tựa lưng vào nhau, tay ôm chặt khẩu AK của Cộng sản, quay mặt ngơ ngác nhìn lên các tầng lầu 2 bên phố mà đoàn xe chạy qua. Ðứng trên lầu cao nhìn xuống, thấy chẳng khác nào những con ếch ngồi trong đáy thùng thiếc mà người ta đem ra chợ bán vậy. Trông thật đáng tội nghiệp, chẳng thấy tý hào khí nào của những anh hùng giải phóng, kiêu hãnh như các anh Cán bộ Cộng sản Bắc Việt cả.


Big MINH (1) hàng, thế là xong,
Nghe lời tuyên cáo mà lòng nát tan.
Thất thần, cổ nghẹn, lệ tràn,
Tim rung loạn nhịp, thời gian đọng chìm.
Bàng hoàng như gẫy cánh chim,
Không gian đảo lộn, khó tìm lối ra.
Thôi rồi ! mất nước mất nhà,
Bao năm chiến đấu bôn ba ích gì?
Sóng lùa Dân chủ trôi đi,
Tự do biến mất còn chi cuộc đời.
Xuôi tay phó mặc ông Trời,
Chờ coi đảng cướp thị oai thế nào.
Xem bầy phản bội ra sao,
Vinh thân hay cũng phải vào ngục đen.
Cộng Hoà Chiến sĩ chẳng hèn,
Lột Quân trang phục vứt bên lề đường.
Tản đi khắp nẻo Quê hương,
Không hàng Việt Cộng, như phường Big MINH.

Saigon, Tháng 5-1975.

(1) Hoa kỳ thường gọi Dương văn Minh bằng Big MINH, để phân biệt với Thiếu tướng Trần văn Minh Tư lệnh Quân khu 1, sau này được thăng Trung tướng, đi làm Ðại sứ đại diện Việt Nam Cộng Hoà tại các nước thuộc Phi Châu.

Không có nhận xét nào: