Thứ Năm, tháng 1 08, 2009

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM

Chương 26

MÚT MÙA LAO KHỔ GIỮA LÒNG TRƯỜNG SƠN

(Hồi Ức Tù Cải Tạo Việt Nam)
Nguyễn Huy Hùng


Sau khi làm sân banh K2 Trại Thanh Phong xong, Ðội chúng tôi được đưa lên sườn đồi ở bên kia con suối nhỏ, đối diện Nhà Thăm Nuôi, để chỉnh trang vun sửa các rãnh trà đã có từ trước, và trồng thêm những hàng trà mới. Anh em mừng thầm, tưởng Ðội được giao phó công tác trồng trà, hái trà, xấy trà, như đã thấy quý Vị Tướng Quân lực Việt Nam Cộng hoà học lao động cải tạo, tại Liên trại 1, Xã Việt Cường, Yên Bái, Tỉnh Hoàng Liên Sơn, hồi những năm 1976-77, thì cũng đỡ.
Nhưng vẫn còn nghi hoặc chưa chắc, vì Ðội không có Nhà Lô riêng, quanh khu vực K2 không thấy cơ sở lò xấy trà. Ðồi trà hiện hữu mới có chừng mươi luống dài khoảng 50 mét, từ dưới chân đồi lên gần sát đỉnh bên sườn Ðông. Bên phiá sườn Tây còn bỏ hoang chưa phát quang, chưa đào rãnh để chuẩn bị trồng.

Giờ giải lao, mò lên ngồi nghỉ trên đỉnh đồi, nơi Anh Nuôi của Ðội đào lò dã chiến đun nước chín, nhìn xuống chung quanh, thấy quang cảnh tựa như một thung lũng đồn điền nhỏ, gồm 3 quả đồi (A,B,C) nằm nối tiếp nhau từ Tây sang Ðông. Tôi tạm đặt tên là “Ðồn điền 3 đồi” để gọi cho có vẻ thơ mộng, và quên đi những nỗi đắng cay nhục nhằn của kiếp sống tù đầy, đang phải chịu hàng ngày.

Vòng theo chân “Ðồn điền 3 đồi” là con sông uốn khúc, với hai con suối nhỏ, từ 2 khe giữa 3 đồi chẩy nhập vào. Bao quanh vùng “Ðồn điền 3 đồi” là những dẫy núi cao sườn dốc, cây rừng rậm rạp, nối tiếp nhau vô tận.

Ngọn đồi B nằm chính giữa, là Khu nhà của Ban chỉ huy Phân trại K2 (Chủ đồn điền) ở trên đỉnh. Phiá chân đồi phiá Nam sát bờ sông, là Khu các nhà giam Tù (Nô lệ phu đồn điền). Chân đồi phiá Ðông Bắc, có một khối núi đá nhô lên, là địa bàn hoạt động của Ðội Lò Vôi. Chân đồi phiá Ðông Nam, có cái đập nhỏ dài 100 mét chặn ngang khe suối giữa đồi B và đồi C, vừa để ngăn giữ nước cho Ðội gạch, vừa dùng làm đường sang đồi mía. Sát đầu đập bên chân đồi B, có Nhà Ăn Tập Thể của Cán bộ (Cai đồn điền).

Ngọn đồi C, nằm bên hướng Ðông ngọn đồi B, là khu trồng miá với cơ xưởng ép miá, lò nấu mật, lò cất rượu, và dẫy nhà Lô của Ðội Miá. Sườn phiá Tây chân đồi C, ngay bên khe suối nhỏ đổ ra dòng sông, là “hiện trường lao động” của 2 Ðội Gạch, với sân phơi gạch mới đóng khuôn, nhà chứa gạch đã phơi khô, và lò nung gạch. Nhà Lô của Ðội gạch gồm 1 gian 2 trái, mái tranh vách phên, dựng sát bên đường ngay gần bờ sông, trông như một quán nước chờ đón khách thập phương qua lại.
Tất cả các Ðội Gạch, Miá, Vôi, Rau xanh, Mộc, đều có Nhà Lô riêng, dựng ngay tại “hiện trường lao động” của mỗi Ðội. Nhà Lô vừa dùng làm kho cất các dụng cụ của Ðội, vừa dùng làm nơi cư ngụ cho Quản giáo Ðội. Theo Tôi, mục đích chính có lẽ dùng làm tiền đồn, canh phòng an ninh xa chung quanh trại giam.

Các Ðội Lâm sản, Nông nghiệp không có nhà Lô riêng. Dụng cụ lao động cất nơi kho chung của Phân trại. Mỗi khi Ðội chúng tôi xuất trại đi lao động, Quản giáo Ðội dẫn 3 anh, do Ðội trưởng chỉ định thay phiên hàng ngày, đến kho lãnh dụng cụ, vác ra hiện trường lao động chia cho anh em dùng. Hết giờ lao động gom lại, để mấy bạn trực ngày hôm đó bó vác về kho hoàn trả, trước khi Ðội đi tắm giặt và trở vào trại giam.

Ngọn đồi A trồng trà, nằm bên hướng Tây của “Ðồn điền 3 đồi”. Ðây là cao điểm, cửa ngõ kiểm soát con đường đất duy nhất, dẫn từ K1 vào K2. Con đường chạy vòng theo chân đồi từ Tây sang Ðông, qua một cầu gỗ sang đồi B (trung ương) có khu Nhà Thăm Nuôi, khu Cán bộ ở, và khu nhà giam Tù. Rồi tiếp tục qua đồi C (phiá Ðông) có hiện trường lao động của 2 Ðội Gạch, Ðội Miá, và băng qua sông nơi khúc cạn đầy sỏi. Sau này mới biết, con đường băng qua sông dẫn đến Xóm Hoán Bù, cách “Ðồn điền 3 đồi” chừng 7 cây số. Qua xóm Hoán Bù, đi thêm chục cây số nữa tới K3, nơi giam Tù Hình Sự của trại Thanh Phong

Trước khi băng qua chiếc cầu gỗ, bắc ngang con suối nhỏ giữa đồi trà (đồi A) và đồi trung ương (đồi B), con đường chẽ ra làm hai. Ði thẳng qua cầu, gặp khu Nhà Thăm nuôi, sân đá bóng tròn (do Ðội chúng tôi mới ban), khu Cán bộ K2, và trại giam. Còn rẽ trái, vòng theo bờ suối đi về hướng Bắc, dẫn đến Bản (làng) của đồng bào Thiểu số Thái Ðen, cách “Ðồn điền 3 đồi” độ 3 cây số.
Thái Ðen, không phải người Thái da mầu đen, mà là mầu của vải may xiêm (váy) y (áo) của phụ nữ. Mẫu kiểu thêu, dệt và may xiêm y giống như của Thái Trắng. Ðiểm khác duy nhất để phân biệt là, cả xiêm lẫn y của Thái Ðen dùng toàn một mầu đen, còn Thái Trắng thì xiêm mầu đen, y mầu trắng. Ðây là ghi nhận dựa theo lời giải thích của đồng bào Thái, Tôi có dịp tiếp xúc lén, trong lúc đi khiêng cây rừng cho Ðội Gạch.

Từ chân phiá Nam đồi trà (đồi A) ra tới đường cái, có một khu đất rộng quây rào kẽm gai, với một truồng bò nằm chính giữa. Bên kia đường là dẫy Nhà Lô của 2 Ðội Rau Xanh, và Khu trồng rau nằm dọc theo bờ sông. Bên bờ sông có một bánh guồng to tướng kết bằng tre, mang những đốt vầu múc nước, lừ đừ quay liên tục ngày đêm, đem nước từ lòng sông đổ vào hồ chứa. Nhờ vậy việc gánh nước tưới các luống rau xanh nhanh chóng hơn, là phải xuống gánh từ sông lên.

Trong vòng 2 tuần lễ liền làm việc tại đồi trà, chúng tôi tu sửa cắt tiỉa các rãnh trà cũ bên sườn Ðông, chặt dọn gốc các bụi tre gai đốt cháy không hết bên sườn Tây, sửa soạn đào thêm các rãnh trồng những hàng trà mới. Làm việc tại Ðồi trà, chúng tôi bị 2 lần hoảng sợ, nhưng may mắn không ai mắc nạn.

Lần thứ nhất, trên đường đi lao động buổi sáng, khi sắp tới cây cầu gỗ bên khu Nhà Thăm Nuôi, thấy bên vệ đường, có một khúc đen mốc mốc tròn to cỡ bắp đùi, dài hơn 3 mét. Anh em tưởng là khúc cây, không dè đi gần đến nơi mới thấy đầu con trăn ngóc lên, rồi nó tuồn thật nhanh xuống suối, băng qua bên kia lẩn vào các bụi bên đường phiá dẫn lên đồi trà. Cán bộ Cảnh vệ cằm súng xăm xăm chạy tới, xục xạo hồi lâu không thấy gì. Anh em tiếp tục dắt nhau qua cầu, leo lên “hiện trường lao động” trên sườn đồi. Không biết các bạn khác nghĩ sao, riêng Tôi vẫn nơm nớp lo sợ. Trong lúc lao động, con trăn có thể nấp đâu đó phóng ra, mổ cuốn nuốt mình làm một bữa cho thoả thê thì thật vô phúc.

Lần thứ 2, cũng trong giờ lao động sáng nơi sườn Tây của đồi trà, Tôi bị một vố sợ toát mồ hôi hột, mặc dù thời tiết đã bắt đầu Lập Xuân nhưng khí hậu vẫn còn lạnh cóng. Chúng tôi chia nhau chặt những gốc tre cháy chưa hết, bứng gốc các bụi tre cho quang, để đào rãnh trồng trà. Lúc Tôi vác mấy khúc tre vừa chặt xong, đem đến chỗ tập trung thành một đống lớn, đốt lấy tro làm phân bón sau này. Khi đi ngang chỗ lò nấu nước của anh Vân, thấy anh ấy chỉ tay vào Tôi khua hất lia lịa, miệng la thất thanh : “vứt đi! vứt đi!”. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, nhưng phản ứng tự nhiên đoán là có điều nguy hiểm bất thường, Tôi vội vàng vứt mấy khúc tre xuống đất, và nhìn anh ấy hỏi : -Chuyện gì vậy?

Chẳng nói chẳng rằng thêm lời nào, anh Vân cằm một khúc tre khác chạy ào đến bên Tôi, đập túi bụi vào đám cỏ ngay bên chân Tôi. Chưa hết ngạc nhiên, Tôi cúi nhìn xuống mới thấy một con rắn mầu trắng, thân chỉ to bằng ngón tay, dài cỡ 30 phân, đầu tam giác, nằm quằn quại trên mặt đất. Lúc đó tim Tôi như muốn ngừng đập, mặt tê lạnh toát, mình sởn gai ốc. Giây phút hoảng sợ toát mồ hôi qua đi, hoàn hồn hết xúc động, Tôi mới nói được nên lời :

- Cám ơn anh!

Anh Vân chậm rãi kể cho biết, lúc anh ấy lấy mấy khúc tre chẻ làm củi đun nước, có một con rắn trắng nhỏ đầu tam giác (loại rắn độc) rớt ra từ lòng khúc tre. Nên khi thấy ở thân khúc tre Tôi đang vác, có một vật trắng đang chui ra, từ từ trườn về phiá cổ của Tôi, anh ấy mới vội ra hiệu báo động cho Tôi vứt đám tre xuống tránh nguy hiểm. Anh Vân nói vừa dứt lời, Tôi cúi xuống rạch bụng con rắn lấy túi mật, to bằng hạt gạo mầu xanh trong như lá mạ, bỏ mồm nuốt chửng.
(Anh Ðại tá Tô văn Vân là người sinh trưởng tại miền Nam, rất khôn khéo và hoà nhã, đã có dịp làm việc chung với Tôi tại Tổng cục Ðịa phương quân và Nghiã quân vào thời gian 1967-68 ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trại Trần Hưng Ðạo, Tân Sơn Nhất, Phú Nhuận, Saigon. Về sau anh ấy theo học Khoá 1 Quân Chính, mãn khoá được bổ nhiệm đi làm Phó Nội An cho anh Ðại tá Dương Hiếu Nghiã Tỉnh trưởng Long Xuyên ở miền Tây Nam phần.)
Con rắn trắng nhỏ này không phải loại rắn Hổ, cũng không phải rắn Lục hay rắn Ráo, Tôi bèn đặt cho nó cái tên rất là Kiếm hiệp “Trúc Bạch Xà”, để ghi nhớ cái kỷ niệm sợ thất thần, không bao giờ quên được trong cuộc đời tù đầy của mình tại K2 trại Thanh Phong.

Sự việc lập tức được truyền tiếp cho toàn thể anh em trong Ðội biết, để lưu tâm đề phòng nguy hiểm. Cũng kể từ đó về sau, hễ anh em gặp rắn dù thuộc loại độc hay không, sau khi đập chết đều gọi Tôi đến để cho lấy túi mật nuốt. Theo mấy ông thầy thuốc Bắc, mật rắn độc là vị thuốc rất tốt cho Thận và làm sáng mắt, nên người ta thường hoà mật rắn Hổ với rượu để uống cho khoẻ. Thời gian khoảng 2 năm ở K2 trại Thanh Phong, Tôi có dịp nuốt cỡ 50 chiếc mật rắn. Không có rượu đành chiêu bằng nước chín, chẳng biết có hiệu nghiệm được như người ta nói không.

Nhưng ít lâu sau, một hiện tượng đặc biệt đã xẩy ra cho chính bản thân, không cần đeo kính cận thị, Tôi vẫn nhìn được mọi vật xa gần rất rõ ràng. Tôi suy nghĩ mãi không biết nhờ mật rắn, hay do sự biến đổi tự nhiên của cơ thể con người theo phân giải của cơ thể học. (Lúc về già con ngươi mắt xẹp bớt đi, khuyết tật cận thị nhờ thế sẽ được tự động điều chỉnh lại.) Sự việc xẩy ra trong một buổi đi phát cây rừng, cặp kính cận thị Tôi đang đeo bị rớt văng xuống đất. Tôi nhướng mắt nhìn quanh để tìm, chẳng may có bạn khác vô tình đi tới đạp lên, làm gẫy gọng không đeo được nữa. Tôi lo buồn vô cùng, vì không có kính, mắt mờ sẽ dễ gặp tai nạn lao động nguy cho bản thân. Nhưng không ngờ từ lúc không mang kính, Tôi vẫn nhìn thấy tinh tường, chẳng khác gì đang đeo kính cận từ nhiều năm nay.

Công việc dọn sạch sườn Tây của đồi trà, đang chậm rãi tiến hành. Ðùng một cái, Ðội chúng tôi được huy động đi tăng cường khiêng thân và cành cây rừng, đã đốn ngã tại các sườn núi bao quanh “Ðồn điền 3 đồi”, đem về nộp cho Ðội Gạch dùng để nung mẻ gạch mới đang vào lò. Sau đó lại tăng cường đi dọn cỏ trong đồng miá, rồi đốn miá chất lên xe bò đem về cho Ðội Miá, ép, nấu làm mật đường và cất rượu.

Sau Tết Canh Thân -1980, toàn thể các Ðội Nông Nghiệp, trong đó có cả Ðội chúng tôi, “ra quân thi đua đầu năm”. Tập trung đi chiếm đất rừng càng nhiều càng tốt, để trồng bắp và khoai mì, tại các khu triền núi bên phải con đường dẫn ra K1, đã được đốn cây và đốt quang từ trước. Sở dĩ Tôi quyết đoán là “tập trung đi chiếm đất” vì, khi vừa dẫn Ðội chúng tôi tới hiện trường, Quản giáo Ðội vội vã chạy đi tìm người đại diện của đồng bào Thái để tiếp xúc, quy định ranh giới của đôi bên, trước khi cho chúng tôi khởi công trồng bắp.

Khi chúng tôi đến làm ở triền núi bên này, đã có một nhóm đồng bào thiểu số Thái đang reo lúa lốc, nơi triền núi bên đối diện. Họ có khoảng hai chục người, đứng từng cặp kẻ trước người sau, thành một hàng ngang dài từ chân núi lên cao dần theo triền núi. Họ đi lần từng bước một, từ ranh bên phải qua mút ranh bên trái khu nương đã khai phá. Người đi trước hai tay cằm một cây gậy, dơ lên đâm xuống mặt đất, tạo một lỗ sâu chừng mươi phân. Người đi sau dùng tay phải, móc hạt giống đựng trong chiếc giỏ cầm nơi tay trái, vứt xuống lỗ rồi dùng bàn chân gạt ngang khỏa đất lấp, thế là việc reo lúa hoàn tất. Triền núi dốc đứng khoảng 60 độ, thế mà họ đi đứng thấy vững vàng, làm việc nhanh nhẹn nhịp nhàng đồng loạt bên nhau, tiến tới đều đặn như những người máy trên xa bàn.

Chừng năm mười ngày sau khi reo hạt, các bụi mạ bắt đầu vươn lên khỏi mặt đất, và dần dần theo thời gian mọc cao thành các khóm lúa um tùm xanh tươi. Sau ba tháng kể từ ngày reo thì lúa chín, gặt đem về cất ăn dần. Ðây là loại “lúa ba giăng“ tức là 3 lần trăng tròn (ba tháng). Loại gạo này có lẫn lộn cả hạt đỏ và hạt trắng, nấu thành cơm ăn hơi sượng y như còn sống, không dẻo mềm như loại gạo trồng ở vùng đồng bằng.

Kỹ thuật hướng dẫn cho chúng tôi trồng bắp, giống hệt kỹ thuật trồng lúa lốc của đồng bào Thái. Mỗi lỗ phải vứt vào 2 hột bắp, để bảo đảm lỡ hột này không nẩy mầm còn có hột kia. Nhưng anh Nghiã Ðội phó dặn nhỏ chúng tôi, nên vứt vào mỗi lỗ tối thiểu 3, 4 hột cho chắc ăn, vì thấy mã hạt giống không được mẩy tốt.

Nhóm đồng bào Thái nói tiếng Kinh rất thạo. Họ có tư thái rất tự nhiên, dễ thương, vui vẻ, bộc trực, thật thà, không lạnh lùng kỳ thị thủ thế, xa cách với chúng tôi như các Cán bộ Công an. Cả toán đồng bào Thái chỉ có hai người đàn ông đứng tuổi, còn toàn là nữ giới, già sồn sồn 4, 5 chục tuổi, trẻ mơn mởn đôi ba mươi. Họ vừa lao động, vừa cười nói bông đùa vang cả đồi núi. Họ cất cao giọng ca những câu “hát quan họ” vùng Bắc Ninh, để ghẹo chúng tôi. Chẳng hạn : “Anh Cả, anh hai, đó ơi ờí!... Hoa Mơ, hoa Mận, hoa Ðào,... Ba hoa chụm lại hoa nào đẹp hơn?...”, rồi họ khúc khích cười với nhau. Lâu không thấy chúng tôi lên tiếng trả lời, họ lại cất tiếng hát những câu khác, có ý chê bai chúng tôi nhát không dám đối chuyện, chắc sợ lúc về nhà sẽ bị “sư tử Hà Ðông” ghen cấu xé... Thật tội nghiệp, họ đâu có biết vì Quy luật Trại giam cấm, nên chúng tôi phải chịu ngậm tăm, chớ bình thường đâu có ngán ngẩm gì việc đối đáp, mua vui giữa hai phe Nam Nữ.

Nhóm đồng bào Thái, chỉ được phép chiếm có một khoảnh sườn núi, vòng theo hướng Bắc của đồi trà. Còn tất cả những khoảng sườn núi khác, dọc bên đường đi K1, thuộc quyền sở hữu của “Ðồn điền 3 đồi”. Chúng tôi phải đào những hàng hố sâu 8 tấc, vuông 7 tấc, cách nhau 1 mét để bỏ hom trồng khoai mì (sắn).

Công tác mở mang diện tích “Ðồn điền 3 đồi” thêm vài cây số về hướng Tây, phải hoàn tất khẩn trương trong vòng 2 tuần lễ. Sau đó, Ðội chúng tôi được giao phó trách nhiệm tu sửa lại con đường dài khoảng 5 cây số, suốt từ K2 ra tới bờ sông gần đến K1 cho thêm rộng, có rãnh thoát nước, và phát quang một khoảng rộng cỡ năm chục mét dọc 2 bên lề đường.

Khi công tác sửa đường hoàn tất, Ðội chúng tôi lại đổi địa bàn hoạt động, đi khai phá mở mang khu trồng đậu phụng (lạc), dọc theo bờ sông nơi chân đồi miá, bên hướng Ðông của “Ðồn điền 3 đồi”. Quả đồi C này rộng lớn sườn thoai thoải, từ lưng chừng lên đến đỉnh trồng miá, còn phần dưới xuống đến sát bờ sông, bên hướng Ðông và Nam, chưa khai phá trồng trọt gì cả.

Dòng sông chẩy vòng theo chân đồi chẳng biết tên gì, có khúc rộng chừng 50 mét, khúc hẹp 20 mét, thành bờ 2 bên thẳng đứng, cao cỡ 10 mét so với mặt nước. Trong mùa khô, dòng nước cạn thu hẹp bề ngang, từ bờ này sang bờ kia chỉ khoảng 5 đến 10 mét, trông như một lạch suối nhỏ, trong vắt nhìn thấy đáy. Nhưng tới mùa mưa lũ, nước dâng cao tràn bờ, mặt sông trở nên rộng mênh mông, từ chân núi bên này tuốt tới chân núi bên kia khu thung lũng. Dòng nước đục ngầu, cuồn cuộn chẩy xiết nghe ào ào như thác đổ, cuốn theo đủ loại cây rừng lớn nhỏ bị trốc cả rễ, cành lá còn xum xuê.

Mỗi năm có một mùa mưa lũ, vào các tháng 7, 8, và 9 Dương lịch. Sau mỗi cơn lũ, đất bờ ở những khúc cong bị dòng nước xoáy phá lở, làm bề ngang sông rộng thêm cả 2, 3 mét. Ðất cát từ bên bờ lở, một phần bị cuốn đi theo dòng nước, một phần bồi qua phiá bên không lở, tạo thành những bãi nổi dài, làm thay đổi hình thái và mức độ nông sâu của dòng sông.

Chung quanh chân của bãi bồi giữa dòng sông, là môi trường sinh sống của các loài sò hến, chen chét. Những khúc sông sâu, là nơi cư trú sinh sản của các loại cá lớn nhỏ. Ðây là những loại thực vật cung cấp chất dinh dưỡng không mất tiền mua, ngoài các loại muông thú hoang dã khác của thiên nhiên, dành cho những người thiếu may mắn phải sống cách biệt với xã hội loài người vùng đồng bằng. Nhưng không phải dành cho Tù, vì Tù đâu có được tự do đi lang thang săn bắt ăn, như Cán bộ canh Tù thường làm hàng ngày.

Suốt bề ngang đáy lòng sông toàn là đá sỏi, lớn nhỏ đủ cỡ đủ màu sắc, hình thù khác nhau, bao bọc bởi rêu xanh trơn trợt, và các loại “ốc mút” tròn dài. Mực nước có chỗ sâu ngập lút đầu, chỗ nông chỉ tới ngang đầu gối lội qua được. Luồng nước chẩy lúc nào cũng rất xiết, vô ý trượt chân là bị cuốn phăng đi hàng chục thước không đứng lên nổi, ướt sũng từ đầu đến chân. Trong mùa Hè còn đỡ, gặp mùa Ðông là cả một cực hình. Không quần áo khô thay ngay, sẽ bị cóng lạnh cảm hàn, biến chứng sưng phổi ho không thuốc chữa, Thần Chết bắt đi dễ như chơi.

Mấy tuần cuốc đất lên luống reo đậu phụng (lạc) hoàn tất, Ðội chúng tôi được đưa trở lại đồi trà, tiếp tục công tác đang bỏ dở.

Tới định cư tại K2 Thanh Phong được chừng 4 tháng, những bạn Tù nghèo quà tiếp tế hết dự trữ, bắt đầu phải cải thiện linh tinh. May thay, quà Bưu kiện lại bắt đầu tới. Anh Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh xưa nay đoạt giải quán quân, nhận nhiều Bưu kiện hàng tháng hơn mọi người, cũng vẫn là người may mắn nhận nhiều Bưu kiện trước nhất. Nhiều đến nỗi, Cán bộ An ninh Phân trại cũng như các Cảnh vệ đi theo canh gác Ðội chúng tôi, ai cũng thuộc tên và tỏ vẻ quan tâm đến anh Quỳnh. Hầu như không đêm nào tránh khỏi, sau giờ điểm danh Tù vào Láng giam buổi tối, Cán bộ đến bên ngoài cửa sổ đầu Láng, nhỏ nhẻ nhắn gọi muốn gặp anh Quỳnh. Họ xin thuốc Tây để trị bệnh, hoặc xin vài con “sâu mỡ” (lạp xưởng) đem về nướng, nhậu thử với các đồng chí khác cho biết mùi...

Thật là một tai vạ cho anh Quỳnh, nhưng lại là điều tốt cho anh em trong Ðội. Vì nhờ vậy, họ không đối xử khắt khe với anh em trong giờ lao động như trước nữa. Ngoài ra, số anh em vì lý do nào đó bị kẹt chưa nhận được Bưu kiện, còn được hưởng một ân huệ đặc biệt “gửi thư chui” trong giờ lao động. Anh em viết thư thật ngắn gọn mang theo, gom lại trong giờ lao động, nhờ Cán bộ chận đưa tận tay thân nhân những bạn “thăm nuôi” xong, đang trên đường rời K2, để các Bà đem về giao thẳng tới nhà giùm. Ðây là những “thư ngoại lệ” gửi bao nhiêu lần cũng được, ngoài bức thư hợp pháp đã trình Quản giáo kiểm duyệt chuyển đi hàng tháng.

Tôi cũng là một trong những người bị kẹt. Anh em được nhận Bưu kiện trở lại cả 2, 3 tháng rồi, phần Tôi vẫn chưa có gì. Nhờ cái ân huệ hạn hữu này, “thư chui” của Tôi đã được giao cho 2 cô con gái của anh bạn Ðại tá Nguyễn Ngọc Ðiệp, ở tận Bến Tre đến thăm Cha, mang giùm về tận nhà đưa cho Vợ Con Tôi ở Saigon. Một tháng sau, Tôi nhận được Bưu kiện gia đình gửi tới, có thư kèm bên trong. Thư gia đình cho biết, dịp Tết Canh Thân-1980, đúng 3 tháng sau khi dẫn Vợ Tôi tới “thăm nuôi” tại K5 trại Tân Lập, Bà Chị Vợ tốt bụng lại cùng cậu con trai đến K5 xin “thăm nuôi” Tôi. Cán bộ cho biết Tôi đã được di chuyển về Nam. Bà Chị nhanh nhẩu biên thư gửi vào Saigon, báo tin cho Vợ Con Tôi ngay. Vì thế, gia đình cứ đợi thư của Tôi, để có địa chỉ trại mới gửi quà hoặc xin phép đi “thăm nuôi”. Chờ mãi chẳng thấy gì, cho đến ngày con gái anh bạn Ðại tá Ðiệp đến đưa thư tay, mới biết Tôi đang ở trại Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá, miền Trung Việt Nam, chớ không phải miền Nam. Gia đình vội vã đến trước Nhà Bưu điện Saigon, mua quà và thuê người bán gói cột làm thủ tục, gửi cho Tôi 4 Bưu kiện liền một lượt.

Ðang làm việc thong thả trên đồi trà, Ðội chúng tôi lại bị điều động đi khai phá triền đồi C, bên phiá Ðông của “Ðồn điền 3 đồi”ù. Dọn đất cuốc rãnh trồng thêm miá, vãi phân, vun gốc các rãnh miá cũ đang vươn mình trở lại, sau vụ thâu hoạch hồi trước Tết.

Thời gian này là giữa mùa Hè, miá đang vươn lên cao, phải tiả các lá gốc cho cây tăng trưởng mạnh. Làm việc trong ruộng miá, không khí nóng nực ngột ngạt khó chịu vô cùng. Lúc nào mình cũng ướt đẫm mồ hôi, bỏ áo ở trần không được. Cạnh lá miá sắc bén như dao, cứa rách da thịt chẩy máu rất nguy hiểm. Bụi phấn lông lá miá rụng ra, bám trên da làm ngứa ngáy, cào gãi xây sát sinh ghẻ lở, cũng phiền hà không kém. Ngoài ra, việc để mình trần còn bị nạn muỗi rừng nhiều vô kể, vằn đen trắng to bằng đầu tăm, bâu đốt đau như bị kim chích, sưng u lên từng cục tròn đỏ rất khó chịu. Nếu chẳng may bị truyền bệnh sốt rét rừng độc hại, còn có thể dẫn đến tử vong.

Quần áo trại phát mỗi 6 tháng một bộ, may bằng vải thô nhuộm mầu xanh chàm, sản phẩm của nhà máy dệt Nam Ðịnh, chỉ mặc được chừng 2 tháng là bợt rách. Chúng tôi đã phải vận dụng óc sáng tạo, chế ra một loại áo lao động rất bền và rẻ tiền, mùa hè thoáng mát, mùa đông giữ được hơi ấm thêm cho cơ thể, để xử dụng trong những giờ lao động. Ðó là những bao sợi pha ni-lông màu xám rất bền không thấm nước, trước kia Quân đội miền Nam dùng đựng đất cát, đắp bờ tường chống đạn quanh các vị trí phòng thủ. Nay thân nhân mua đựng thực phẩm khô gửi qua đường Bưu điện. Lấy những bao này khâu nối lại với nhau, thành một mảnh giáp dài có lỗ chui đầu ở giữa. Nửa mảnh che trước ngực, nửa mảnh phủ sau lưng, cột dây hai bên nách.

Những anh em được thân nhân tiếp tế dư giả loại quần áo lính cũ dầy bền, không bao giờ cần biết đến việc sản xuất và xử dụng loại áo kiểu mới này. Nhưng thấy chúng tôi dùng, anh em cũng lịch sự khen, có óc sáng tạo rất ư là Cách mạng. “Lao động là sáng tạo” mà. Cách mạng Vô sản đã khẳng định như vậy, làm sao sai được.”

Một Gô nước chín trại phát trước khi xuất trại, cộng thêm một Gô do Anh Nuôi của Ðội cung cấp tại “hiện trường” vào giờ giải lao, không bao giờ đủ giải quyết những cơn khát, trong thời gian lao động tại đồng miá. Anh em đành phải liều chặt lén miá ăn, vừa để giải khát vừa thêm chất ngọt “bồi dưỡng” cho cơ thể.

Ðồng miá rộng bao la, được phân thành nhiều lô bởi những con đường, rộng 3 mét, thẳng tắp từ đầu này sang đầu kia, theo hướng Ðông Tây. Các rãnh trồng miá cách nhau 1 mét, dài trăm mét, nằm vuông góc giữa các con đường, theo hướng Bắc Nam. Khi anh em vào sâu trong luống làm việc, đứng ngoài đường quan sát chẳng thấy gì, chỉ nghe những tiếng gậy phạt soạt soạt, lẫn với bước chân người đạp lên lá miá rào rạo mà thôi. Cảnh vệ và Quản Giáo cũng chẳng muốn chui vào đồng miá, theo sát bên anh em đôn đốc làm gì cho cực. Họ ngồi ngoài đường dõi nghe tiếng động, cũng biết anh em có lao động liên tục hay không, và đang hiện diện tại khu nào trong đồng miá.
Nhờ vậy, chúng tôi có thể thong thả chọn lựa cây miá nào mập, đốt dài, nằm bên rià luống, rồi mới dùng cuốc bập cho đứt mà không làm rung động cả bụi miá. Sau đó chặt phân thành 4, 5 khúc, phần ngọn đem cắm xen vào giữa các gốc bụi khác gần đó. Rồi tước vỏ các khúc miá nạc, cắt thành từng khúc ngắn cỡ 2 đốt ngón tay, chẻ tư bỏ túi để vừa lao động vừa ăn. Bã miá nhả ra vùi xuống dưới những đống lá trong rãnh. Ngoài việc chặt miá lén ăn ngay trong ruộng, Tôi còn liều lĩnh dấu đem về trại cho anh bạn Khuông Trực Nhà của Ðội, mỗi buổi 2 khúc để “bồi dưỡng”, vì anh này không có quà tiếp tế của gia đình.

Trong thời gian mọi người ra ngoài lao động, anh Khuông được ở nhà, ngoài công việc dọn dẹp vệ sinh trong ngoài láng, lãnh thực phẩm và nước chín hàng ngày cho Ðội, còn trồng được một luống rau “cải thiện” bên hàng rào. Do đó Tôi cung cấp gia vị và các thực phẩm khô như mì ăn liền, gạo xấy, thịt cá mực tôm khô..., để anh ấy nấu nướng biến chế thêm những món ăn chung, ngày 2 bữa cho cả 2 người. Nhờ vậy nắng cũng như mưa, sau khi đi lao động về nghỉ ngơi chừng nửa tiếng đồng hồ, Tôi có đồ ăn nóng sốt mà không phải vất vả lo việc nấu nướng, cũng như sau khi ăn không phải lo rửa soong, gàmèn...như các anh em khác. Chẳng riêng gì Tôi, nhiều người khác cũng giúp các Bạn nghèo tiếp tế của gia đình, theo lối ăn chung như vậy. Vì thế có đôi người keo kiệt khó tánh, nói ra nói vào bắn tiếng phê bình : “-Ở tù mà còn bầy đặt dùng “Tà loọc”.

Chúng tôi ăn miá lén được cả tháng trời, mới bị Cán bộ Cảnh vệ phát giác. Chỉ có Tôi và 3 bạn nữa, cùng trong một nhóm làm gần nhau bị mắc nạn. Quản giáo Ðội gọi chúng tôi ra “làm việc” ngay tại chỗ, và buộc đến tối phải “tự phê” trong buổi họp kiểm thảo hàng đêm của Ðội. Chúng tôi phải viết tờ kiểm điểm nhận tội “ăn cắp của cải Xã hội Chủ nghiã”, và cam kết hứa không tái phạm. Chúng tôi không ghi là “ăn cắp” mà ghi là “ăn vụng”, hy vọng tội sẽ nhẹ đi. Nhưng chắc là Ban Giám Thị Trại đã có lệnh mới, về việc đối xử với Tù sao đó, nên anh em chúng tôi không ai bị kỷ luật. Vụ việc coi như cho “chìm xuồng” luôn không thấy nhắc tới.

Ðội chỉ được cấp một chiếc thùng, cho Anh Nuôi nấu nước chín, cung cấp cho anh em trong giờ lao động. Vì thế, ngày nào cũng có một người được chỉ định thay phiên, tiếp anh ấy khiêng thùng đi, về, cũng như xuống sông lấy nước. Một hôm đến phiên Tôi đi phụ. Vào đầu giờ lao động buổi chiều trời nắng gay gắt, chúng tôi vừa xuống tới bờ sông, gặp một cảnh thật ngoạn mục, hiếm có hiện ra trước mắt. Phiá trên bến lấy nước, nơi đầu dòng khoảng giữa sông, chỗ nông nổi đầy đá, có 2 cô Thái ngồi chồm hổm ngâm nửa người dưới nước. Cả 2 người cùng cuốn váy cao ngang ngực, mặt hướng nhìn về phiá ngược dòng nước chẩy, nên không biết có chúng tôi xuống bến. Ðợi một lúc lâu chẳng thấy các cô ấy động tĩnh gì, chúng tôi đành phải đập mạnh vào thùng sắt, tạo tiếng động cho các cô ấy giật mình quay lại. Thấy chúng tôi, các cô ấy tỉnh khô từ từ đứng lên thả váy xuống, và thong thả đi lên bờ. Chúng tôi chào và hỏi : -Các Cô bắt gì vậy? Các cô nhoẻn miệng cười thản nhiên, trả lời : “-Tắm cho mát thôi!”

Khoảng 5, 6 tháng sau ngày chúng tôi tới K2, một số anh em đến trước, bị di chuyển đi trại Thanh Cầm. Một tuần lễ sau, lại có một số khác từ miền Bắc chuyển vào. Mọi người hơi nao núng bàn tán, phải chăng cái Kế hoạch lập Vùng Kinh tế Mới, định cư Tù Chính trị miền Nam vĩnh viễn tại Thanh Cầm là chuyện thật? Và trại Thanh Phong này là điểm chuyển tiếp?

Các biến động làm hoang mang tinh thần mọi người vừa tạm ổn định, một việc buồn khác lại “đột xuất” xẩy ra tại K2. Một hôm, lúc gần đến giờ điểm danh vào Láng giam buổi tối, trong Khu Cách Ly của chúng tôi, có một bạn trẻ thân hình to lớn khoẻ mạnh bị ngất xỉu, được anh em cõng xuống Bệnh xá cấp cứu. Sáng hôm sau được tin anh ấy đã chết vì ngộ độc, do ăn hột trái “guốc” luộc.
Theo anh em Ðội Vôi, ở chung Láng giam với chúng tôi cho biết, vùng này có một loại trái rừng nhỏ, hình thù cấu tạo y như trái vải (lechi), đồng bào Thái gọi là trái “guốc”. Cùi chung quanh hạt, lột ra ăn ngon ngọt như cùi trái vải. Hột đem luộc ăn bùi béo như hột mít. Ăn chơi dăm ba hột thì không sao. Nếu ăn nhiều từng Gô cho no bụng, như ăn hột mít luộc thay cơm, sẽ bị ngộ độc chết không cứu được. Chỉ sau khi ăn một lúc lâu, mới bắt đầu cảm thấy say choáng váng, vì chất độc hoà vào máu chuyển lên não bộ. Dù có thụt nước rửa ruột hoặc làm mọi cách mửa bã ra cũng vô ích. Cách duy nhất là truyền huyết thanh (serum) pha trộn thuốc giải độc vào máu để cứu, nhưng trong Trại tù làm gì có.

Dịp lễ Ðộc Lập 2 tháng 9, Phân trại K2 tổ chức một buổi văn nghệ mừng rất rôm rả, có Trung tá Nguyễn Thùy Trưởng trại Thanh Phong dẫn đoàn Cán bộ Trung Ương đến tham dự. Chương trình văn nghệ do anh em Ðội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ, gồm một số Vị Tuyên úy Công giáo, Phật giáo, cùng mấy anh em gốc Chiến tranh Chính trị, sửa soạn tập dượt thực hiện.

Ðặc biệt trong chương trình có mục ngâm bài thơ của bồi bút Tố Hữu, Phó Thủ tướng Chính phủ Hànội. Bài thơ tuyên dương kỳ công của Phạm Tuân, Ðại tá phi công Cộng sản Việt Nam theo phi hành đoàn Liên Xô Vĩ đại, lên con tầu Vũ trụ của Nga đi vào không gian, thử nghiệm tình trạng phát triển của Bèo Hoa Dâu Việt Nam trong trạng thái Vô Trọng Lượng. Giọng ngâm của anh bạn Tô kiều Ngân, một Sĩ quan thuộc ngành Chiến tranh Chính trị, thật điêu luyện và lôi cuốn người nghe. Chẳng thua gì hồi bạn ấy thi thố tài năng trong giờ Thi văn Tao đàn, phát trên làn sóng của các đài phát thanh tại Saigon trước 30-4-1975.

Lúc bạn ấy ngâm đến câu : “Mang dép lốp bước lên tầu vũ trụ”, nơi hậu trường có một tiếng pháo nổ thật lớn làm mọi người giật mình xửng sốt, đồng thời đèn điện chớp nhoá thật nhanh, và một chiếc hoả tiễn vẽ trên giấy cứng được kéo từ chân sân khấu bên này vụt lên tréo sang đỉnh sân khấu bên kia. Tiếng vỗ tay nổi lên vang dậy cả Hội trường, xen trong đó có một bạn lớn tiếng thêm câu thòng : “-Nhớ đem về cho vài kí sắn !” Tiếng vỗ tay trong Hội trường rào rào vang dậy lớn hơn, để biểu lộ sự tán đồng lời riễu cợt. Lập tức có tiếng còi của Cán bộ An ninh, tiếng gạn hỏi xôn xao ở phiá cuối Hội trường, làm ngưng bặt tiếng vỗ tay. Trên sân khấu, bạn Tô Kiều Ngân vẫn tiếp tục, ngân nga trầm bổng theo tiếng sáo dật dìu, ngâm cho hết bài thơ.

Chúng tôi được xếp ngồi ở khoảng giữa Hội trường, thành ra đến tận lúc mãn buổi văn nghệ ra về, mới được nghe anh em thì thầm cho biết. Người nói câu đó là một bạn Tù trẻ, Sĩ quan cấp úy gốc Thiểu số miền Cao Nguyên Trung phần tên Ðiểu Côn, đã bị bắt đem đi giam trong Nhà Kỷ Luật.
Theo nhận định của riêng Tôi, buổi sinh hoạt văn nghệ này được tổ chức theo chỉ thỉ của Trại trưởng Trại Thanh Phong, Trung tá Nguyễn Thùy, để khoe cùng các Ðàn anh ở Trung Ương, về cái tài giỏi của ông ta trong việc giáo hoá Tù Chính trị miền Nam. Không những ông ta khiến được mọi người ngoan ngoãn quy thuận, hăng say khai phá rừng sâu để sản xuất thêm nhiều của cải cho Xã hội Chủ nghiã, theo đúng đường lối chính sách của Nhà nước. Mà còn lôi cuốn được Tù sáng tạo các chương trình văn nghệ rất có ý nghiã, để thúc đẩy tinh thần thi đua lao động cải tạo, cũng như tin tưởng biết ơn Ðảng, Nhà Nước, và các anh hùng Xã hội Chủ nghĩa.

Mấy ngày sau buổi văn nghệ, một số anh em được Ðoàn Cán bộ Trung Ương kêu lên “làm việc”. Thành phần được gọi toàn là dân Phòng Nhì, An ninh Quân đội, Chiến tranh Chính trị, những khuôn mặt quen thuộc, trong đó có Tôi, đến Trại nào cũng bị gọi lên “làm việc”. Dĩ nhiên, Cán bộ tra vấn không phải những người cũ, đã gặp trong các lần “làm việc” tại các Trại trước.

Lần này Tôi bị hỏi và phải viết chi tiết về Tổ chức, Nhiệm vụ, của hệ thống Chiến tranh Chính trị, từ Trung ương xuống Ðịa phương, và trong các Ðơn vị tác chiến. Ðề tài này họ đã buộc Tôi viết, từ hồi còn ở Trại Suối Máu, Biên Hoà năm 1976. Sau 4 năm, họ lại hỏi nữa, chắc là để kiểm tra sự “thành khẩn khai báo” của mình, xem có “trước sau như một không”? Tôi coi như “pha” chẳng có gì lo lắng. Lỡ lần này viết có không giống lần trước “tiền hậu bất nhất” cũng chẳng sao. Mức độ đầy đọa khủng bố tinh thần đến mức tối đa đã qua rồi, mình vẫn sống nhăn chưa chết. Huống chi lúc này, mình đang là con mồi để kiếm Ðô-La, họ đâu dám hành hạ cho mình “chết dở sống dở” nữa mà sợ.

Thấm thoát ngày tháng qua đi thật mau. Khi rừng bắt đầu đổi mầu loang lổ xanh, vàng, hung đỏ, nâu, trông như một tấm vải gấm ngũ sắc vĩ đại, phơi mình dưới ánh nắng vàng úa của mùa Thu, các Bà vợ Tù bắt đầu xuất hiện ở khu Nhà Thăm Nuôi. Thường các Bà được xe vận tải Trại Thanh Phong, chở tới K2 vào buổi chiều tối. Nhưng sau khi “thăm nuôi” xong ra về, các Bà phải đi bộ gần năm cây số từ K2 ra K1, nơi có Ban Chỉ huy Trại Thanh Phong, để chờ thuê xe đưa trở ra ga Thanh Hoá.

Trong số anh em Ðội chúng tôi, cũng lẻ tẻ có thân nhân đến “thăm nuôi”. Có anh ngỡ ngàng khi thấy người đến thăm mình là Bà vợ lớn ở Hànội, đã xa nhau từ mấy chục năm, nay bỗng dưng có dịp gặp lại. Có anh Vợ ở Saigon ra, mang theo một giấy giới thiệu của Cán bộ Chính quyền Ðịa phương, yêu cầu Trại giam “chiếu cố” cho ở lại qua đêm bên nhau. Thật bất ngờ, anh bạn này không thuộc thành phần lao động “xuất sắc” hoặc “Tự quản đội”, để được hưởng ân huệ “thăm nuôi đặc biệt”. Sau này nhờ anh ấy tiết lộ tâm tình riêng với các bạn thân, anh em mới biết được hoàn cảnh éo le. Một trong các cô Con gái của anh ấy, đã kết hôn với Cán bộ thi hành chính sách “Tam cùng” của Ðảng và Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam. Theo chính sách này, Cán bộ Cộng sản phải “tranh thủ” đoạt Vợ Con Ngụy Quân Ngụy Quyền làm chiến lợi phẩm, nhằm mục đích phá tan hoang nền nếp gia đình của Tư sản.

Hình như Cấp Trung Ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, mới có chỉ đạo đặc biệt sao đó, nên tại Trại Thanh Phong, Trung tá Nguyễn Thùy Trại trưởng quy định thời gian “thăm nuôi” là nguyên cả ngày. Tù và thân nhân được ở bên nhau từ sáng sớm cho đến tối, để có dịp cùng ăn một bữa cơm trưa do chính thân nhân sửa soạn. Mỗi gia đình “thăm nuôi” được cấp một phòng riêng có giường nằm, có bàn ghế, và đặc biệt có cửa đóng kín, tha hồ trò chuyện thoải mái, không có Cán bộ canh chừng. Trường hợp được đặc biệt “chiếu cố”, thì Tù và thân nhân được ở thêm bên nhau qua đêm. Trong một dịp ghé thăm gia đình “thăm nuôi” tại K2, Trung tá Thùy có giải thích : “-Ðể đền bù công lao khó nhọc vất vả đi hàng ngàn cây số của các Bà, nên “chiếu cố đặc biệt”cho Cải tạo viên và thân nhân ở bên nhau cả ngày cho thoải mái.”


TRƯỜNG SƠN, XUÂN LƯU ÐẦY.

Xuân vẫn là Xuân, Ta vẫn Ta,
Khác chăng là ngoại cảnh rừng già.
Lăng xăng ngoài giậu, Công an đỏ,
Lặng lẽ trong rào, Cải tạo gia.
Khỉ, Cú trẽn trơ nhìn nước đổ,
Anh hùng sầu muộn nhớ thời qua.
Mưa Phùn gợi nỗi thương Dân tộc,
Gió Bấc khơi lo vận nước nhà.
K2, Thanh Phong, Xuân Canh Thân – 1980.

GÓI ƯU TƯ MÙA THU

Gió đưa nhẹ lá vàng rơi,
Nghiêng nghiêng nắng ngả bóng đời vào Thu.
Lom khom ven núi đoàn Tù,
Khua dao, múa cuốc, ngất ngư vạn sầu.
Gió sương hun bạc mái đầu,
Rừng hoang ngăn lối, thấy đâu đường về.
Âm thầm ngày tháng lê thê,
Mây ngàn thăm thẳm bóng quê mịt mù.
Xuyên trời vụt bóng chim cu,
Làm sao gửi gói ưu tư nghẹn ngào ???

Mùa Thu 1980.
K2, Trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hoá.

Không có nhận xét nào: